Về bài thơ “Cầu ngói thanh toàn”

15:25 31/10/2008
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.


Huế 10 tháng 9 năm 2008.
Kính Anh Phan Thuận An thân mến!
Tình cờ đọc bài viết “CẦU NGÓI THANH TOÀN - TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA MỘT ĐẤNG NỮ LƯU” đăng trong Tạp chí SÔNG HƯƠNG số 8 (tháng 8 năm 1994) cách đây đã... 14 năm.
Bài viết về Cầu Ngói của anh rất hay, súc tích, tác giả đã dày công nghiên cứu, tìm tòi các tài liệu liên quan ở trong và ngoài nước, giúp cho người đọc hiểu rõ nguồn gốc và giá trị của cây cầu và tấm lòng vì xã hội của bà Trần Thị Đạo, người sáng lập ra Cầu Ngói.

Tuy nhiên, qua bài thơ được trích dẫn phần cuối bài, có lẽ qua lời của một người dân địa phương chỉ biết qua loa về tác giả (dù bài thơ được viết trên mặt kính lớn, chữ bằng sơn đỏ, có đóng khung và được treo trong cầu, ngay trước khán thờ; trong suốt thời gian từ năm 1956 đến 1980 sau đó không hiểu ai đã tháo gỡ ra, hay bị bão lụt…) vì vậy, tên của tác giả bị ghi sai là “Tế Bá Lệ” Bài thơ thể đường luật mà anh ghi lại cũng chưa đúng lắm so với bản gốc. Cụ thể như câu thứ 3 chữ cúng dường chứ không phải nhường, câu 4 chữ cầu kỳ không phải cầu kiều, câu 5 từ khoe khoang chứ không phải đoan trang, câu thứ 7 chữ 5: ghi, không phải phùng.

Xin đính kèm theo đây bản phô tô 1 đoạn bài viết của anh, đồng thời gởi kèm tặng anh bài thơ CẦU NGÓI của chính tác giả có bút danh là Thái Sơn, tên thật là Nguyễn Văn Lệ, thành viên của Hội Thơ “Hương Bình Thi Xã” thời đó, cùng những bài thơ của các nhà thơ đã họa nguyên vận bài thơ trên để anh nhàn lãm.
Bài thơ gốc của tác giả Thái Sơn (Nguyễn Văn Lệ):

Trần Thị Phu Nhân xã chúng ta        
Tiếng tăm vang dội khắp gần xa       
Cúng dường đất ruộng dân cày cấy  
Xây đắp cầu kỳ khách lại qua
Khăn yếm khoe khoang ngời khí tiết
Phấn son tô điểm rạng sơn hà
Sắp phong ân tứ ghi công đức           
Hương khói ngàn thu tưởng niệm Bà
Trân trọng
TẾ LỢI Nguyễn Văn Cừ

Trích bài viết của Nhà nghiên cứu Phan Thuận An (đăng ở Tạp chí Sông Hương số tháng 8 - 1994):
“… Trong dịp khánh thành lần tu sửa cầu năm 1956, Tế Bá Lệ, một nhà thơ tại địa phương, cảm kích công tích quí báu của người đàn bà họ Trần, đã làm bài thơ được lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay:
Trần Thị Phu Nhân xã chúng ta        
Tiếng tăm vang dội khắp gần xa       
Cúng
nhường đất ruộng dân cày cấy
Xây đắp cầu
kiều khách lại qua
Khăn yếm
đoan trang ngời khí tiết
Phấn son tô điểm rạng sơn hà
Sắp phong ân tứ
phừng công đức     
Hương khói ngàn thu tưởng niệm Bà.
…”

Sông Hương chỉ xin có vài ý nhỏ:
Nguyên văn câu thứ 7 (in ở TCSH số 8 - 1994), không phải là chữ “phùng” mà là chữ “phừng”. Đây là một chữ rất quý, nó làm lan toả ân đức của Trần Thị Phu Nhân, xem như nhãn tự của bài thơ.
So với bản gốc, bản của nhà nghiên cứu Phan Thuận An có từ ngữ trong sáng hơn. Ví như nếu là cầu kỳ (xây đắp cầu kỳ), thì không rõ nghĩa bằng cầu kiều. Dân gian ta có câu:Muốn sang sông phải bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Từ khoe khoang (trong Khăn yếm khoe khoang ngời khí tiết), nếu được thay bằng từ đoan trang (như trong bản sưu tầm được của Phan Thuận) thì sang trọng và tinh tế hơn.
Qua thời gian, việc nảy sinh dị bản của một tác phẩm cũng là thường tình. Ngay cả bài Văn tế Nghĩa sỹ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu hay và nổi tiếng như thế cũng có dị bản. Nhưng việc đi tìm bản gốc và định danh tác giả của nó là rất quan trọng. Sông Hương xin cám ơn ông Nguyễn Văn Cừ đã cung cấp cho bạn đọc văn bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”!
     S.H

(nguồn: TCSH số 236 - 10 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Trong Lời giới thiệu tác phẩm mới xuất bản của Phan Trung Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng, tác giả của Ăn xà bông(*) đã rẽ ra được một lối đi cho riêng mình như kết quả của nỗ lực lao động nghệ thuật.

  • PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.

  • THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)

  • KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

  • LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.

  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)