Về bài hát "Ba Vì mờ cao" của nhà thơ Quang Dũng

09:40 28/08/2009
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

Bài "Nhớ Ba Vì" - Ảnh: Khanhly.net

Chợ Dầu - Kim Bảng, Hà Nam thuở đó không chỉ có cô hàng cà phê nghiêng nước nghiêng thành đã bước vào âm nhạc của Canh Thân, mà còn là nơi Huy Du và Quang Dũng gặp nhau sau cuộc Tây Tiến về. Đêm chợ Dầu nồng men khi Huyền Kiêu đọc câu thơ của Véc-len: "Uống một ly rượu nhỏ - cho lên hương cuộc đời". Chính lúc ấy, Quang Dũng cao hứng sau những nhịp thơ Tây Tiến đã hát "Ba Vì mờ cao". Bài hát trữ tình đầy chất lãng mạn đã lôi cuốn mọi người dù được Quang Dũng hát bằng trí nhớ, không bản nhạc và cũng không ai đệm đàn. Chính đêm đó, nhạc sĩ Huy Du đã ký âm và cùng Quang Dũng "chỉnh lý" lại "Ba Vì mờ cao". Vậy là nhờ có Huy Du - tác giả của "Sẽ về thủ đô", của "Ba Vì năm xưa" - bài hát "Ba Vì mờ cao" của Quang Dũng đã có văn bản và đã được phổ biến rộng rãi. Năm ngoái, dịp cuối đông, Huy Du có viết lại kỷ niệm đó trên Tạp chí "Âm nhạc và thời đại". Song có lẽ vì thời gian đã hơn nửa thế kỷ, nên Huy Du có thể còn nhớ giai điệu, nhưng ca từ thì có chỗ còn nhớ khác người khác và riêng ca từ lời hai thì hoàn toàn không nhớ được.

Vì yêu quý Quang Dũng mà Huy Du đã ghi lại kỷ niệm này, để nhớ một bài hát của một nhà thơ ngỡ đã bị quên lãng. Cũng vì yêu quý Quang Dũng mà một cựu binh khác là ông Quách hải Lượng đã có những bổ sung về ca từ theo trí nhớ của mình và còn ghi ra thêm 6 câu cuối bài mà theo ông là "rất đẹp, đẹp như tranh, rất vang, vang vọng đúng như chuông núi rừng". Đó là đoạn kết mang tính "hát thơ" nhiều hơn: "Tiếng chuông vang sớm chiều - Tiếng chuông ngân núi rừng - Âm u ! Âm u ! - Nhớ chăng người ơi ngày nào năm xưa - Khi trăng vừa lên". Hơn năm mươi năm trước, "Ba Vì mờ cao" đã sống vì vẻ đẹp của chính nó, giờ đây "Ba Vì mờ cao" càng sống vì vẻ đẹp của huyền thoại trong con tim những người yêu quý Quang Dũng. Mỗi người yêu quý Quang Dũng theo cách riêng của mình, bằng trí nhớ của mình. Cũng nhờ lên đỉnh Ba Vì và nhận cảm sự hùng vĩ của quả núi, lại được nghe giai điệu "Ba Vì mờ cao", anh Hiền Nhân (con rể cả của cố Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên) sau khi biết những câu chuyện nói trên đã không quản ngại thời gian, cố đi sưu tầm bằng được lời hai của "Ba Vì mờ cao". Anh đã tìm đến nghệ sĩ ưu tú Kim Ngọc - người đã hát "Ba Vì mờ cao" cho Quang Dũng nghe tại tư gia ở khu tập thể Nguyễn Công Trứ trước khi nhà thơ tạ thế - và ghi âm giọng hát Kim Ngọc hát "Ba Vì mờ cao" theo trí nhớ của mình. Quả là "Hiền Nhân có công, ông Quang Dũng không phụ". Nhờ trí nhớ của nghệ sĩ ưu tú Kim Ngọc, ca từ lời hai "Ba Vì mờ cao" đã được khôi phục lại. Có thể nói "Ba Vì mờ cao" là một bức tranh bằng âm thanh mà Quang Dũng vẽ với màu chủ đạo là màu tím ít thấy trong hội họa Quang Dũng. Màu tím bắt đầu được phớt lên ở ca từ lời một: "Đồi thông lên màu tím". Màu tím ở ca từ lời một chỉ được gợi lên như thế rồi chìm đi trong một thi cảnh khác: "Đồi lau úa trong hơi mù ướt". Song có lẽ cái ám ảnh của màu tím trên đỉnh Ba Vì đã khiến Quang Dũng không thể coi như một màu sắc thoảng qua, ông đã "nhấn" ám ảnh của màu tím thành màu chủ đạo của bức tranh khi đột ngột quết lên rất ấn tượng ở đoạn kết của ca từ lời hai mọng chất thơ: "Khi chiều buông - trăng vừa lên - Vầng trán soi màu sao - Ngồi nghe bên suối lên đời hoa - Hồ mây lâng sóng dưới trăng tà - đêm về màu tím - Tím như màu mùa xưa”.

Dù nhớ có khác nhau chỗ này, chỗ kia thì cái chung nhất ở mọi người khi nhắc tới "Ba Vì mờ cao" là nhớ Quang  Dũng - một tài hoa của "xứ Đoài mây trắng lắm". Có lẽ cứ để nỗi nhớ bập bùng trên từng cung bậc trong con tim của từng người và để thêm một lần xác nhận sự bất tử của Quang Dũng.

Không chỉ để lại những tác phẩm thơ - họa - nhạc, Quang Dũng còn để lại cho đời một tiếc thương vô hạn mà khiến cho cô con gái út Bùi Phương Thảo khi nhớ ông đã phải khóc nấc thành thơ:

Chợ Hàng Mã ngày rằm tháng bảy
Quẩn quanh con tìm không thấy một quyển thơ
Xe máy, tivi, nhà tầng... đủ cả
Có ai làm thơ để đốt mã bao giờ
...
Khẽ khàng thôi bước chân trên cỏ
Thắp nén hương con khấn bố về
Cửa trời đất xin một lần hãy ngỏ
Bố nhận bài thơ con nhớ bố đêm qua...

N.T.K
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000