Về “cái gia gia” trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

09:38 28/04/2014

ĐINH VĂN TUẤN

Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

Ảnh: internet

Sự tranh luận này có chiều hướng phủ nhận quan điểm cũ của các tiền bối cũng như những người tin theo họ để bảo vệ cho cách đọc “cái đa đa”. Thế nhưng, theo chúng tôi, tranh luận đã không đi đến tiến bộ và sự thật với các bằng chứng có giá trị thuyết phục mà ngược lại đã gây ra nhiễu loạn về học thuật, làm mất cảm hứng cho người yêu thơ và gây hoang mang cho sự học tập, giảng dạy của thầy và trò.

Bài viết này là một cố gắng tìm hiểu lại vấn đề một cách khách quan trên tinh thần khoa học với các chứng cứ xác đáng. Hy vọng có thể trả lại giá trị nghệ thuật và ý nghĩa vốn có của những vần thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan.

I. “Gia gia” và văn bản chữ quốc ngữ

“Cái gia gia” trong câu thơ thứ 6 ở bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan được phiên âm và viết chữ quốc ngữ sớm nhất có lẽ là từ tác giả Phạm Quỳnh, 1917(2) và sau đó đến các nhà nghiên cứu văn học khác như Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn, 1918(3); Trần Trung Viên, 1925 - 1930(4); Ôn như Nguyễn Văn Ngọc, 1927(5); Georges Cordier, 1933(6); Ngô Tất Tố, 1941(7); Dương Quảng Hàm, 1941(8); Hạo Nhiên Nghiêm Toản, 1949(9); Trần Trọng Kim, 1946(10); Nguyễn Tường Phượng, 1953(11) và các nhà khác cho đến nay cũng vẫn là “cái gia gia”.

Về ý nghĩa “cái gia gia”, cụ Nguyễn Văn Ngọc, lần đầu tiên đã chú giải tường tận:Gia gia = đáng lẽ cũng viết da da, hay đa đa; chỉ một giống chim thuộc về loài gà, loài công, lông đỏ, trắng, xám, hay đen, ở những nơi quang đãng, không đậu trên cành cây bao giờ và người ta hay săn bắn, mới đúng, nhưng cũng vì đây tuy mượn đến con da da mà thực ý lại nói đến gia ăn với chữ quốc ở trên và nghĩa là nhà”. Như vậy, theo đó “gia gia” chính là “da da”, một biến âm dân gian của “đa đa” nhưng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, “da da” phải đọc là “gia gia” (nhà) để ứng đối với “quốc quốc” ở câu trên vì cụ Ôn Như cũng đã giảng về “quốc quốc” ở câu thơ thứ 5: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” như sau: “Đáng lẽ viết cuốc cuốc, nhưng vì đây tuy mượn đến con cuốc mà thực ý lại nói đến quốc nghĩa là nước. Ngô Tất Tố còn trích thơ của di thần đời Lê là Trần Danh Án: “鷓 鴣 鳴 家 家, 杜 鵑 鳴 國 國, 微 禽 尚 有 國 家 聲, 孤 臣 對 此 情 難 極, Gia cô minh “gia gia”, Đỗ Quyên minh “quốc quốc”, Vi cầm thượng hữu” quốc” “gia”, thanh. Cô thần đối thử tình nan cực” (Gà gô kêu gia gia, con cuốc kêu quốc quốc, loài chim nhỏ còn có tiếng kêu “quốc” “gia”, kẻ bề tôi chơ vơ đối với những tiếng ấy đau lòng khôn xiết” và cho là có thể Bà Huyện Thanh Quan đã chịu ảnh hưởng “minh quốc quốc”, “minh gia gia” để viết thành “con quốc quốc” và “cái gia gia”. Các nhà khác về sau, nói chung đều cũng hiểu ngay “gia gia” là nói đến loài chim đa đa hay gà gô, tên chữ Hán là giá cô 鷓鴣.

Tóm lại, 2 chữ cuối của câu thơ thứ 6 trong bài thơ Qua Đèo Ngang, từ trước đến nay đều được đa số các nhà nghiên cứu đọc hiểu là “gia gia” ám chỉ con chim đa đa và cũng liên tưởng đến ý niệm “nhà” như một thủ pháp “chơi chữ” trong thơ ca. Nhưng một số nghi vấn có thể nảy sinh từ đó: Tại sao chỉ là “gia gia” mà không phải là “da da” hay “đa đa”? Liệu có một dị bản nào khác thay cho “gia gia”?

II. “Gia gia” và văn bản chữ Nôm

Trong tất cả các sách báo viết về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (kể các các bài tranh luận gần đây), điều đáng tiếc là thiếu vắng bản Nôm gốc (dù là truyền bản) để làm bằng chứng khi luận giải, nguyên nhân có thể là do trở ngại về việc in chữ Nôm hay thói quen xem thường bản gốc và cũng vì việc tìm đọc các văn bản Hán Nôm quý hiếm (lại không được sao chụp, in ra để phổ biến) rất khó khăn. Dù vậy, thông qua các tài liệu quốc ngữ xưa nay do các nhà nghiên cứu uy tín về văn học Hán Nôm biên soạn, ta nhận thấy không một tác giả nào đã đưa ra một dị bản nào khác ngoài “gia gia”. Tuy nhiên Thanh Nghị, 1967(12) có thể là người đầu tiên đọc là “đa đa” thay vì “gia gia”: “Thương nhà mỏi miệng cái đa đa” nhưng lại không cho biết nguồn trích dẫn, có thể là ông tự suy đoán theo tri thức riêng mình. Rồi mới gần đây An Chi cũng tin tưởng và quả quyết cách đọc “đa đa”(13) là đúng nhưng lại cũng không đưa ra được bằng chứng về chữ Nôm, một thiếu sót quan trọng khi nghiên cứu, bàn luận. Nhưng cách đọc “đa đa” liệu có đúng theo văn bản chữ Nôm nào đó không? Theo PGS. TS Đỗ Thị Hảo(14), những bài thơ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan có chép rải rác trong 5 văn bản: 1. Liệt truyện thi ngâm, AB.147; 2. Quốc âm thi tập, AB.649; Thi ca quốc âm tạp lục, VHv.266; Quốc văn tùng thư, VHv.2248; Quốc văn tùng ký, AB.383, Đỗ Thị Hảo cho biết trong 5 văn bản này, chỉ có bản AB.383 là đáng tin cậy còn các bản khác đều chép tùy tiện, chữ có nhiều dị biệt. Bản Quốc văn tùng ký do Nguyễn Văn San tự là Vân Sơn tên hiệu là Hải Châu Tử biên soạn, ông là người sống cùng thời với Bà Huyện Thanh Quan. Các bài thơ này được Đỗ Thị Hảo khảo cứu với phương pháp: “...mỗi bài thơ chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu những dị biệt ở từng câu chữ với những bài thơ đã từng được công bố trước đây” và bài Qua đèo Ngang đã được Đỗ Thị Hảo phiên âm và chú thích cẩn thận, đáng chú ý là có kèm theo chữ Nôm, tuy nhiên, đây không phải chữ Nôm gốc nhưng lại là font vi tính nên không biết có thật chính xác? Câu thứ 6 như sau: “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”, hai chữ “gia gia” được ghi là 家家. Chúng tôi đã tìm thấy bản chép tay văn bản Quốc văn tùng ký 國文 叢 記 AB.383 từ thư viện gia đình của Maurice Durand(15), phần Phụ Nhàn Khanh thi tập 附 嫻 卿 詩 集 có chép bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan và 2 chữ cuối câu thứ sáu được chép chữ Nôm là [家鳥], người chép tay đã phiên Nôm là “gia gia”. Chữ Nôm có phần biểu âm là gia 家 và phần biểu ý là điểu 鳥. Chữ Nôm trong sách của Đỗ Thị Hảo và của Maurice Durand tuy khác nhau nhưng dù sao phần thanh phù vẫn chỉ là gia 家 và từ âm gia chỉ có thể đọc là da hay gia mà thôi, không thể đọc ra “đa” được. Cụ Trần Văn Kiệm(16) cũng đã từng dẫn ra chữ 2 chữ Nôm [家鳥] và [加 鳥] (thanh phù gia) và đọc là “gia” (mỏi miệng cái gia gia). Chúng tôi đã tra cứu trong các bộ tự điển chữ Nôm loại lớn như Đại tự điển chữ Nôm (Vũ Văn Kính)(17), Tự điển chữ Nôm(18) (Nguyễn Quang Hồng), Tự điển chữ Nôm trích dẫn(19) (Viện Việt Học) thì thấy âm “gia” được viết bằng chữ Nôm như 家, 加, 耶, 茄, 嘉, 傢, 痂, 椰, 跏, 葭, 瘕, 爺 (thanh phù gia, già, da)… và âm “đa” được ký âm bằng đa 多,爹, 栘, [飠它] (thanh phù đa, đà). Riêng chữ 枷, tự điển Nguyễn Quang Hồng cho là có âm đa (trong cây đa) nhưng theo chúng tôi thanh phù gia phải đọc là “da” mới đúng âm xưa. Thật ra xưa là cây “da” (= cây đa) như tự vị của P. Béhaine (1772 - 73)(20), Huỳnh Tịnh Của(21) (1895 - 96) đã ghi nhận và viết Nôm là 椰 (da), đến tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức(22) (1931) mới ghi nhận cây da = cây đa. Như thế, cách đọc “đa đa” của Thanh Nghị và An Chi không xác đáng vì thiếu chứng cứ văn bản cũng như về phép đọc chữ Nôm, cho đến nay chưa phát hiện ra một dị bản nào chép chữ Nôm là 多 hay [鳥 多] và dĩ nhiên như trên đã nói, [家鳥], 家 trong bản AB.383 (và các bản khác) không thể đọc ra “đa đa”.

III. “Gia gia” và tiếng kêu của chim giá cô (đa đa)

Tên gọi tiếng Việt của loài chim giá cô 鷓鴣 xuất hiện sớm nhất trong tự điển Việt - Bồ - La (1651)(23) của Đắc Lộ với tên gọi là chim “đa đa” và từ đó về sau hầu hết các tự điển, tự vị quốc ngữ đều chỉ ghi nhận “đa đa”. Về chữ Nôm của tên gọi loài chim “đa đa”, trong các văn bản Nôm như Tam thiên tự(24), Ngũ thiên tự (26), Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca(27), Đại Nam quốc ngữ(28) và các tự vị, tự điển của P. Béhaine, Huỳnh Tịnh Của, J.F.M. Génibrel(29)… đều ký âm là 多多, không có tự dạng nào khác nữa. Hiện vẫn chưa tìm ra tài liệu nào ghi nhận chim đa đa còn gọi là da da hay gia gia nhưng vì các tự vị, tự điển xưa không thể thâu thập hết tiếng Việt nên không biết đến và rất có thể trong dân gian (ở địa phương nào đó) đã từng gọi tên như vậy? Tiếng Việt (hay trong phương ngữ miền Trung) từng có sự biến đổi qua lại giữa D và Đ như đao/dao; đĩa/dĩa; da/đa… vậy khả năng đa đa có thể được nói là da da như cụ Nguyễn Văn Ngọc đã giảng? Nguyễn Ngọc San(30) giải thích về “gia gia”: “Đây là cách chơi chữ của tác giả. GIA GIA là đa đa, giống gà nhỏ sống ở ven rừng (…) Đa đa có thể biến âm thành DA DA, giống như các trường hợp sau:

Đình
Dừng
Đao
Dao
Đốc (tâm)
Dốc (lòng)
Đẩy
Dẩy...

Giữa DA DA và GIA GIA không có gì khác nhau vì lúc này đã có sự xoá nhãn giữa đối lập D > < GI. Phiên là DA DA hay GIA GIA là do người phiên âm, và cũng để phô tài chơi chữ của tác giả”
.

Nếu dân gian gọi tên “đa đa” theo tiếng kêu của loài chim giá cô như: “Tiếc rổ tép đa đa! Tiếc rổ tép đa đa!” thì cũng có thể còn các tên gọi khác dựa vào những âm nhại dân gian từ tiếng kêu chim đa đa như “Bát cát quả cà”, “hành bất đắc dã ca ca” để gọi là “gô”, gà (nguyên âm a thành ô như nam/nôm, hạt/hột), “gô” gọi tắt từ “giá cô” như chim “quyên” gọi tắt từ “đỗ quyên”. Đặng Đức Siêu, Nguyễn Ngọc San trong Ngữ văn Hán Nôm (tập 2, Nxb. Giáo dục, 1988) lại nhìn nhận, giá - cô (là từ gốc phương Nam) của gà gô; vậy lẽ nào tiếng kêu “gia gia” như trong thơ Trần Danh Án đã từng viết “Giá cô minh gia gia” lại không được dùng để gọi tên: chim gia gia? Cụ Quách Tấn(31) đã cho biết thơ Tàu cũng có “gia gia”: “Đỗ vũ than đầu minh quốc quốc, Giá cô giang thượng khiếu gia gia” (Cuốc cuốc đầu gềnh kêu quốc quốc, Đa đa bờ nước gọi gia gia), “Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc, Nhật văn cô điểu hoán gia gia” (Cuốc kêu quốc quốc canh dài, Gia gia ngày những sụt sùi tiếng đa). Theo Nguyễn Đổng Chi(32) và Đỗ Đức Hiểu thì “gia gia” là tiếng kêu của chim giá cô như sau: “Bất thực túc Chu gia”, vì dựa theo điển tích Bá Di, Thúc Tề không chịu ăn cơm gạo nhà Chu, rồi bỏ lên núi và hai ông nhịn ăn rồi chết đói, lòng mãi u uất, “Oan hồn hai ông biến thành một con chim kêu ra rả: “Bất thực túc Chu gia... Bất thực túc Chu gia... Chu gia...gia, gia...” có nghĩa là “Không ăn lúa nhà Chu... Không ăn lúa nhà Chu...” và tiếng cuối cùng “gia gia” âm vang trong núi. Mọi người bảo đó là con chim đa đa còn đầy uất hận” (33). Chắc tiếng kêu này chỉ là theo khẩu ngữ tục truyền từ dân gian Trung Quốc thôi chứ trong thành ngữ Hán chỉ có: “Bất thực Chu túc 不食周粟”(34) liên quan đến điển tích này. Thông thường chim giá cô trong thư tịch Hán tục truyền có tiếng kêu là “hành bất đắc dã ca ca 行不得也哥哥” (xíng bù dé yě gē gē) nhưng ít ai biết rằng vẫn còn có tiếng kêu khác nữa đó là: “Áo não trạch gia 懊惱澤家” (ào nǎo zé jiā), trong bài thơ Giá cô 鷓鴣 của Vi Trang 韋莊 (đời Đường) có câu: “Áo não trạch gia phi hữu hận 懊惱澤家非有恨” và “Áo não trạch gia” theo bộ Từ Nguyên (36) chính là tiếng kêu của chim giá cô. Nguyễn Văn San trong Đại Nam quốc ngữ (37) đã chú giải về chim đa đa (giá cô) như sau: “Chim đa đa, vua Nghệ Tông gọi nó là Hoài Nam, lại có tên Việt trĩ, nó thường kêu “áo não trạch gia,“câu chu cách trách”, hành bất đắc dã ca ca”. Như thế, các âm “jiâ”, “gia” và “gia gia” cũng là một cách tượng thanh của tiếng kêu của chim đa đa chứ không nhất định chỉ là “gē gē”, “ca ca” hay “đa đa”. Nếu chưa tìm thấy tài liệu chữ quốc ngữ nào ghi nhận chim da da/gia gia cũng không thể khẳng định là không có vì chính tiếng kêu “jiâ”, “gia” và “gia gia” và quan trọng hơn, đó là cách viết 家, [家鳥] trong văn bản chữ Nôm AB.383 đã là những bằng chứng chắc chắn cho tên gọi chim da da/gia gia. Trừ phi tìm ra được một văn bản chữ Nôm có niên đại sớm nhất, trước bản Nôm AB.383 khắc hay viết là 多 hay [鳥 多] mới có thể quả quyết Bà Huyện Thanh Quan dùng “cái đa đa” chứ không phải là da da/gia gia. Đây cũng là sự phủ định đối với ý kiến vô căn cứ của An Chi khi ông viết một cách võ đoán, trịch thượng: “Gia gia” cũng đâu có phải là tiếng kêu của con đa đa! Đúng như thế và đây là một căn cứ tối quan trọng: Con đa đa đâu có kêu “gia gia” (…) Thế mà người ta đã chấp nhận nó một cách thụ động hàng trăm năm nay và còn hân hoan khen lấy khen để, hoàn toàn không biết rằng “cái gia gia” chỉ là một cấu trúc rỗng tuếch về ngữ nghĩa và sai bét về ngữ pháp. Khôi hài nhất là hàng trăm năm nay, từ cái cấu trúc dỏm đó, các “nhà có uy tín” kia đã suy ra được những cái ý dễ làm rung động lòng người về gia đình, đất nước”(36).

IV. “Gia gia” và nghệ thuật dùng chữ của Bà Huyện Thanh Quan

Với tình hình văn bản hiện nay như chúng tôi đã dẫn ra, cho phép ta tin rằng Bà Huyện Thanh Quan thực sự viết [家鳥], 家 (thanh phù gia) va sẽ có thể đọc là:

1/ DA DA: “Thương nhà mỏi miệng cái da da. “Da da” có thể hiểu là biến âm của “đa đa” và câu trên “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc” (cuốc chứ không phải là quốc). Nhưng nếu chỉ có thế (da da chẳng qua chỉ là đa đa), 2 câu thơ sẽ trở nên rất bình thường và không có gì đáng tranh luận. Cho nên, ta có thể suy luận hợp lý: nhà thơ cố ý một cách khác thường để nhất định dùng “da da” mà không dùng “đa đa” như muốn người đọc phải liên tưởng đến một âm khác đó là:

2/ GIA GIA: “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Tại sao là “gia gia”? Đây chính là một vấn đề lý thú. Nhưng trước hết cần phải đặt dấu hỏi: Tại sao nhà thơ không dùng ĐA ĐA, một tên gọi quá quen thuộc, phổ biến toàn quốc ít nhất từ thế kỷ 17 cho đến ngày nay mà lại như cố ý dùng GIA GIA? Sao không có một bản Nôm nào truyền lại viết là 多多 hay [鳥多] [鳥多] để đọc thành 2 câu thơ rất bình thường, dễ hiểu như: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc. Thương nhà mỏi miệng cái đa đa”? và sẽ chẳng có gì đáng phải tranh cãi hay khen chê cho mất thời gian, tốn giấy mực cả. Đây là một phản đề rất quan trọng để đi đến khẳng định về từ ngữ “gia gia” là một cách chọn lọc chữ nghĩa rất tinh tế của nhà thơ. Bà Huyện Thanh Quan nếu viết [家鳥], 家 la có dụng tâm, dụng ý về tu từ, theo chúng tôi cảm nhận, nhà thơ đã chọn âm “gia gia”, vừa giống với “da da” - chim đa đa - (thật ra trong tiếng Việt ngày xưa, các phụ âm D và GI hòa lẫn, không phân biệt rõ như ngày nay) vừa liên tưởng đến tiếng kêu “gia gia” như văn, thơ chữ Hán (Việt - Hoa) đã từng dùng và gợi đến ý niệm gia/nhà theo ý “thương nhà: mỏi miệng”. Không chỉ có thế, GIA GIA sẽ ứng đối với QUỐC QUỐC ở câu trên. “cuốc cuốc” là tên chim cuốc, nhưng ở đây dùng điệp tự cho ứng với con da da/gia gia như một bài thơ trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập từng viết: “Ðậu lá võ vàng con bướm bướm. Ấp cây gầy guộc cái ve ve”(37), con bướm/ bướm bướm, con ve/ve ve là bình thường trong tiếng Việt xưa nay. “Cuốc” đồng âm “quốc” nên sẽ là QUỐC vì QUỐC vừa giống với “cuốc” (chim) vừa liên tưởng đến tiếng kêu “cuốc cuốc/quốc quốc” như thơ chữ Hán (Việt - Hoa)(38) và sẽ gợi ý niệm quốc/nước theo ý “nhớ nước: đau lòng” ở đầu câu.

Đây chính là tài năng làm thơ độc đáo của Bà Huyện Thanh Quan. Khi đọc ngâm 2 câu thơ 5 và 6, tiếng Việt sẽ như sau:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da

Nhưng ngẫm ra mới thấy thủ pháp chơi chữ tài tình: cuốc/quốc da/ gia và như vậy khi viết chữ Việt cần phải viết QUỐC và GIA nhằm thể hiện rõ phép tu từ của tác giả.

“Nhớ nước đau lòng con QUỐC QUỐC.
Thương nhà mỏi miệng cái
GIA GIA

V. Thay lời Kết

Qua những tìm hiểu và luận chứng ở trên, chúng tôi nhận thấy rằng cách đọc “gia gia” từ các bậc tiền bối là hoàn toàn hợp tình hợp lý vì văn bản chữ Hán, Nôm truyền lại cũng như các bằng chứng về ngữ âm lẫn tiếng kêu của chim đa đa đã chứng minh một cách xác đáng. Sự cảm thụ cũng như nhận thức thấu đáo của tiền nhân về nghệ thuật dùng chữ của Bà Huyện Thanh Quan là đáng trân trọng. Chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm một vài ý quan trọng như tái khẳng định quan điểm của các tiền bối: Nhà thơ nhất định không viết chữ Nôm là 多多 hay [鳥 多] [鳥 多] (không hề có dị bản viết 多 hay [鳥 多]) nghĩa là từ chối âm đọc “đa đa” rất phổ biến trong tiếng Việt trước và ngay trong thời đại của mình nhưng đã chọn lựa tinh tế âm đọc “da da/gia gia” và viết chữ Nôm là [家鳥], 家 như muốn gợi ý cho người đọc liên tưởng ngay đến tiếng kêu “gia gia” của chim đa đa, hơn nữa, “gia” còn gợi ý niệm nhà và thể hiện sự ứng đối với “cuốc cuốc/quốc quốc” ở câu trên. Cho nên, cuối cùng, vẫn là CÁI GIA GIA, hiểu như một tên gọi khác của chim da da/ đa đa. Bằng chứng cho cách đọc GIA GIA chính là tiếng kêu “jiā”, “gia” và “gia gia” của chim giá cô trong thư tịch Hoa - Việt và cách viết 家, [家鳥] trong văn bản chữ Nôm AB.383. Vậy thì, 2 câu thơ đặc sắc trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan xưa nay vẫn là:

“Nhớ nước đau lòng con QUỐC QUỐC.
Thương nhà mỏi miệng cái
GIA GIA

Rất mong rằng, bài viết này sẽ đem lại sự yên tâm và vẻ đẹp của thi ca đến với các bạn yêu thích thơ, văn học Việt Nam và các thầy cô cùng các sinh viên, học sinh.

Đ.V.T
(SH302/04-14)


-------------------------
1. An Chi:
Cái “gia gia” chẳng là… cái gì cả! (http://vienngonnguhoc.gov.vn).Vẫn cứ là cái đa đa (Tạp chí Đương Thời số 11/2009) (http://tunguyenhoc.blogspot.com).Không thể không là cái đa đa (http://www.vanhoahoc.vn). Không nên lẫn lộn các giống chim (http://nhavantphcm.com.vn).

2. Nguyễn Quảng Tuân, “Cuốc cuốc - da da” hay “Quốc quốc - gia gia” (http://www.honvietquochoc.com.vn).

3. Vương Trung Hiếu.
Cái gia gia là … cái nhà! (http://www.vanhoahoc.vn).Trao đổi về giống chim (http://www.vanchuongviet.org).
Lại bàn về giống chim (http://www.vanchuongviet.org).
Nam phong Tạp Chí số 5, 1917; số 7, 1918.

4. Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, Nxb. Văn Học 2004.

5. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Nam thi hợp tuyển, Vĩnh Hưng Long Thư Quán, 1927, Xuất Bản Bốn Phương (Tái bản), 1952.

6. Georges Cordier, Etude sur la littérature annamite, Saigon 1933.

7. Ngô Tất Tố, Thi văn bình chú, Nxb. Văn Học, Trung tâm Văn hóa Đông tây (tái bản theo bản in lần đầu 1941). 2010.

8. Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử yếu, 1941, Chương thứ IV, Trung tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục (in lần thứ 10), Sàigòn, 1968.

9. Hạo Nhiên Nghiêm Toản, Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu (tập 1). Nhà Sách Vĩnh Bảo Sài Gòn 1949

10. Lệ Thần Trần Trọng Kim, Việt Thi, Nxb. Tân Việt. 1949.

11. Nguyễn Tường Phượng - Phan Văn Sách - Bùi Hữu Sung, Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX,. Tài Liệu Giáo Khoa, Hà Nội, 1953.

12. Thanh Nghị, Việt Nam tân từ điển minh họa, nhà sách Khai Trí. 1967.

13. Xem chú thích 1, An Chi.

14. Đỗ Thị Hảo (chủ biên), Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH. 2010.

15. Maurice Durand, Quốc văn tùng ký, AB.383 (nguồn http://findit.library.yale.edu).

16. L.m An-tôn Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Nxb Đà Nẵng & Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm Hoa Kỳ, Đà Nẵng. 2004.

17. Vũ Văn Kính, Đại tự điển chữ Nôm, NXB Văn Nghệ TPHCM 1999.

18. Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Tự Điển Chữ Nôm, Nxb. Giáo Dục 2006.

19. Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn Đặng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Uyên Thi, Tự điển chữ Nôm trích dẫn, Viện Việt Học ấn hành, 2009.

20. P.J. Pigneaux, Dictionarium Anamitico - Latinum, (bản thảo viết tay) (1772 - 1773). Nguồn: bản pdf của NNT trong Diễn đàn VVH (viethoc.com).

21. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nxb. Trẻ, tái bản 1998.

22. Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam tự điển, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản, 1968.

23. Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb. Khoa học Xã hội, 1991.

24. Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ (ký hiệu R.1667), Liễu Văn Đường Tàng Bản, khắc in năm 1915, (Nomfoundation.org).

25. Nguyễn Bỉnh, Ngũ thiên tự dịch Quốc ngữ, bản khắc in năm 1909, ký hiệu R.1554 (Nomfoundation. org).

26. Phan Đăng (dịch), Thơ văn Tự Đức (tập 3), Nxb. Thuận Hóa, Huế. 1996.

27. Lã Minh Hằng (khảo, phiên, dịch chú), Khảo sát từ điển song ngữ Hán -Việt, Đại Nam quốc ngữ (Nguyên bản Nguyễn Văn san), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2013.

28. J.F.M Génibrel, Dictionnaire Annamite - Français, Deuxième édition, Tân Định, Saigon 1898, nguồn sách phổ biến từ books.google.com.

29. Nguyễn Ngọc San, Thử bàn về vấn đề phiên Nôm, Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm.2004, Thư viện Quốc gia Việt Nam - Hà Nội.

30. Quách Tấn, Nét bút giai nhân, Nxb. Phụ Nữ 1998.

31. Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Sự tích chim đa đa, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2000.

32. Đỗ Đức Hiểu, Mai Thục, Nguyễn Văn Khỏa, Điển tích văn học: 100 truyện hay Đông Tây kim cổ, Nxb. Khoa Học Xã Hội - Mũi Cà Mau, 1990.

33. Hán Điển, (nguồn http://www.zdic.net).

34. Từ nguyên (tu đính bản) Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc Kinh 1998.

35. Lã Minh Hằng (khảo, phiên, dịch chú), Khảo sát từ điển song ngữ Hán -Việt, Đại Nam quốc ngữ (Nguyên bản Nguyễn Văn san), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2013.

36. An Chi, Không thể không là cái đa đa, (nguồn: http://www.vanhoahoc.vn).

37. Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên, Hồng Đức quốc âm thi tập, (in lần thứ hai có sửa chữa) Nxb. Văn học, Hà Nội., 1982.

38. Tiếng chim cuốc kêu “cuốc cuốc” đã xuất hiện trong bài thơ “Lại vịnh nắng mùa hè” trong Hồng Đức quốc âm thi tập (sđd), ở câu: “Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc”.
 







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?