Vầng trăng di từ Hàn Mặc Tử đến Hàn Lệ Thu

08:45 21/04/2017


LÊ TỪ HIỂN

Ảnh: internet

1. Sống trong trăng và chết như trăng

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử, công trình sưu tập và khảo cứu 4 tập quy tụ chân dung, thi phẩm và tín niệm tâm linh - nghệ thuật của 140 thi sĩ trong dòng chảy 100 năm thơ Công giáo Việt Nam, Có một vườn thơ Đạo (Trăng Thập Tự chủ biên, Nxb. Phương Đông, Tp.HCM, 2012) - Đau hương sắc cuộc Đời… được ra mắt và chào đón như một sứ điệp thiêng hằng.

Sự thăng hoa huyền nhiệm đức tin mang một hình hài ấy được gửi đến từng tác giả và gia đình. Có một tác giả đã lặng lẽ về Nước Chúa, an nghỉ ở nghĩa trang bệnh viện Quy Hòa gió xôn xao hòa điệu sóng xanh dừa xanh liễu xanh… trời xanh thẳm. Không gia đình, không con cái. Bản sách được chuyển vào Quy Hòa, ra Ghềnh Ráng, đến Trường Đại học Quy Nhơn và về tay tôi với lời “Kính tặng gia đình tác giả Hàn Lệ Thu - Quy Nhơn 15/08/2012. KT Nhóm Biên soạn - Lm G.P.Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)”. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) như một cột mốc khởi nguồn và tỏa bóng được dành trọn vẹn trong Tập 1 - Thi sĩ của Thánh Giá. Hàn Lệ Thu (1940 - 2007) “nằm” áp cuối Tập 2 Như song lộc triều nguyên để dẫn qua Ơn phước cả (Tập 3). Như song lộc triều nguyên quy tụ 44 tác giả sinh trong khoảng thời gian từ 1912 đến 1940, cùng thời với Hàn Mặc Tử. Một thời đại, một phong trào, một dòng thơ ca với nhiều tên tuổi, nhiều bài thơ hay. Bên cạnh một Hàn Mặc Tử từng được suy tôn người đứng đầu Thái Dương Văn Đoàn, con rồng trong nhóm Tứ Linh, Vị Chúa của Trường Thơ Loạn, chủ soái khuynh hướng thơ từ lãng mạn sang tượng trưng siêu thực ở Quy Nhơn - Bình Định, ngôi sao lạ trong phong trào Thơ Mới… còn có những tên tuổi quen thuộc: Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Võ Long Tê… Hàn Lệ Thu có vẻ lặng lẽ khiêm nhường. Kỳ lạ thay, có nhiều sự tương đồng ở cuộc đời và thơ ca hai Hàn thi sĩ như một sự tiếp nối gặp gỡ trong tâm niệm đường thơ “Không có gì làm cho ta cao quý hơn là một nỗi Đau thương lớn” (Musset).

Ôm bộ sách đồ sộ vào lòng, ông giáo một đời góp chữ, cõng chữ, gieo chữ… nhiều khi mãi quên Đời… như tôi bỗng cay mắt, nhớ thương và cúi đầu tạ lỗi cùng Dì Mười Thu Cúc. Dì ơi, con một đời phấn trắng… Nén hương thơm sám hối… Trang giấy trắng trắng trời huyền nhiệm.

Sinh thời, Dì thường ngồi lặng lẽ ở Túp lều tranh ẩn cư nho nhỏ ở khu dưỡng lão Quy Hòa. Có lần vào thăm, đón hoa quỳnh nở, tôi hỏi: Ngoại đặt tên cô gái út với nghĩa Cúc nguyệt (cúc trăng tháng 8), Cúc tú lan phương, Cúc ngạo hàn sương… đẹp kiêu sa lãng mạn mà lặng đằm, tài hoa phát tiết như Cậu Ba Nguyễn Thế Diêu đã viết ở quê nhà Thiều Quang - Tuy Phước - Bình Định: Em tôi Thu Cúc tí ti - Ưa đàn thích hát làm gì cũng ngoan… sao Dì không lấy luôn bút danh là Thu Cúc có hay không, lại là Hàn Lệ Thu nghe đẹp mà lạnh buồn hiu hắt mang bóng Hàn Mặc Tử. Dì cười, này Dì chưa gặp, không quen, chỉ biết qua thơ nhưng không vay bóng đâu. Năm Hàn mất, Dì mới chào đời. Bệnh tật vào đây mới biết Hàn sống chưa đầy 2 tháng và mất ở đây. Đơn giản là quê nhà mình lắm cúc. Đơn giản đời Dì như giọt nước mắt lạnh buồn, long lanh sương Thu khát bay về cõi ấm… chứ thi phú gì! Tình cờ như gặp ý thơ đầy máu và nước mắt của Thi Thánh Đỗ Phủ. Khóm cúc tuôn theo dòng lệ cũ. Tình cờ như một sự tiếp diễn cuộc đời và thơ ca tim vỡ máu trào Thi sĩ của Thánh Giá Hàn Mặc Tử…
 

Ảnh: thanhcavietnam.net

Ngoại con là Đại đức Thích Quảng Nguyện không muốn Dì làm thơ. Thầy bảo: Con thôi làm thi sĩ - Tứ thơ bay bướm hại linh hồn - Cho người mê cảm lời hoa mỹ - Là tự nâng mình, con biết không… Nhà Phật vốn vô ngôn, vô tự, buông bỏ… Thế mà Dì vẫn làm?! Ừ, biết làm gì hơn… Dì đã tạ lỗi với Ngoại trong bài Tâm sự được Đài Sài Gòn bình giải và diễn ngâm vào ngày 16/05/1969 trong chương trình “Tiếng Chuông Chùa”. Con ghi nhớ cả lời răn dạy - Trừ tội làm thơ con chẳng chừa! - Đứng trước ảnh Thầy, con cúi lạy - Mong Thầy hủy bỏ ý năm xưa…

Vậy là mệnh số tình cờ, ngẫu nhiên. Thơ tìm đến người, chẳng phải người tìm đến thơ… Âm thầm con khóc cùng trăng tỏ - Và thổi thơ lên khỏi áng mây. Hàn cũng hơn một lần tự nhủ: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ… vậy mà rốt lại Ngồi lên để thả cái hồn thơ! Thơ đúng là sự tự thăng hoa huyền nhiệm của đức tin cứu rỗi mang khát vọng xanh hòa lẽ riêng chung Đạo Đời. Ở đó thương yêu tỏa nhiệm mầu - Nụ cười xoa dịu vết thương đau… Nỗi đau tình cờ. Nỗi đau ở đó. Nỗi đau hóa trăng. Trăng thơm nguyện cầu.

2. Trăng bao tuổi và thơ bao tích

Như một sự tình cờ ngẫu nhiên của nhân sinh - vũ trụ, năm Rồng vàng Hàn Mặc Tử trong Bàn thành Tứ hữu Bình Định thu hình vào mây, Phượng hoàng mang tên thánh Phanxicô Xaviê Nguyễn Trọng Trí bay về miền Xuân như ý, Thượng thanh khí… cũng là năm đóa Cúc vàng giấu kín hương Thu hé nụ ở Phước Thắng - Tuy Phước - Bình Định, Clara Ceilia Nguyễn Thị Thu Cúc đau nở đóa hoa thơ. Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ - Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời…

Hồn thơ siêu thoát Hàn Mặc Tử bay vào vũ trụ mênh mông, đến Nguồn Trăng, Nguồn Thơm, Nguồn Thơ… trong ánh sáng nguyện cầu. Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu - Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu - Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang. Cái Đẹp chết đi, lại tái sinh tái tạo. Cái Đẹp mãi lưu đày. Những Trồng hoa cúc, Vịnh hoa cúc, Hồn cúc… âu cũng chỉ là thế giới mộng ước tình thơ với chút hão huyền nuôi dưỡng. Nhưng đúng là Thơ có tuổi và chiêm bao có tích. Thu đậu lên tâm lòng khách não. Cái Đẹp chỉ là chiếc bóng Buồn Thu. Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa - Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha - Vẻ mặt khác chi người quốc sắc - Trong đời tri kỷ chỉ riêng ta.

Hàn Lệ Thu đã có bài thơ Đêm nghe tiếng cú - Kính viếng vong hồn Hàn Mặc Tử. Đêm tịch mịch chìm sâu trong bóng tối - Dãy thông dài tấu khúc nhạc bi ai - Đôi mắt con ươn ướt lệ tràn mi… vọng lời nguyện cầu xuân quang đãngGiọng cầu xin trong nước mắt chan hòa - Mẹ ơi Mẹ! Đưa con vào ánh sáng… Vậy là ánh sáng Thiên Đàng, tìm đâu xa, ở ngay chốn trần gian. Bạn không tin, ngày hỏi nắng mới lên, chiều hỏi sương chớm xuống, tối hỏi lại vầng trăng mọc giăng trời. Dẫu có bao cung bậc sắc điệu trăng, vẫn là một phần nhỏ hữu thể. Phần lớn vô hình trăng lặn sâu trong lòng bạn vô ngôn. Trăng tâm tình, trăng ứa máu, trăng vàng ngọc… và thật giản dị Trăng, Trăng, Trăng! là Trăng, Trăng, Trăng!

Sáng tạo thơ dường như là vô thức thăng hoa, nhưng bao giờ trong thẳm sâu cũng ý thức trách nhiệm, trách nhiệm thi sĩ - người thơ trước hết với chính bản thể Người của mình. Ai cũng biết, Thi sĩ vầng trăng - Hàn sinh trong mùa trăng, uống trăng, tắm trăng, mặc áo trăng, mửa ra trăng, bán cả trăng, Chơi giữa mùa trăng… và chết như trăng. Không gian dày đặc toàn trăng cả - Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Thơ là thế giới huyền ảo được chưng cất từ cõi thực bay lên. Lệ Thu cũng sống giữa vầng trăng huyền ảo, Nhờ trăng đi thăm mẹ em, đếm trăng Năm mảnh trăng, Trăng bệnhTrăng xanh mét như người đau mới khỏi… Chơi với trăng, Tắm trăngĐêm ấy vầng trăng trong sáng lắm - Chị cười trăng nhuộm ướt vành môi… Đêm nay em đứng dưới trăng thanh - Trăng ướp người em ướp lá cành… Em đứng im đây đã mấy giờ - Tư thế tràn ngập ánh trăng mơ.

Hàn Mặc Tử là sự tích hợp kỳ lạ ở cuộc đời vừa bình thường vừa dị biệt nên thường đầy vẻ kỳ bí, đứt đoạn, ngoài trường liên tưởng quen thuộc. Cũng là Say trăng, tắm trăng, nhả ra thơ, nhưng nhiệm mầu ảo hóa đến ghê người. Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy - Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra. Hàn Lệ Thu từng có một tuổi thơ trong trẻo trong vòng tay ấm gia đình, thơ có nét giản dị, cụ thể, cảm tính, nữ tính… hơn. Thật giản dị đến kỳ diệu ở mắt nhìn thơ trẻ trong trò chơi đếm trăng cùng mẹ. Hai vầng trong mắt mẹ - Một mảnh ở trên trời… Hai mảnh đọng mắt em - Như vậy đúng năm trăng… Trăng của Hàn mang sắc thái lạ lùng Một miệng trăng thu về Cả miệng ta trăng là trăng… rồi Ta nhả ra đây một nàng. Còn Lệ Thu vũ trụ thu về trong mắt Mẹ và Em. Khắp bầu trời thế giới - Có đến năm cô Hằng. Cả hai đều từ cổ điển Đường luật, nhưng Hàn đã vượt bờ lãng mạn sang siêu thực tượng trưng, nữ sĩ Lệ Thu căn bản vẫn là âm hưởng lãng mạn gần gũi với Gái quê của Hàn.

Cả hai đều rơi vào vòng xoáy khốc liệt của thảm kịch số phận, trăng trở thành nỗi ám ảnh đau thương tan vỡ. Với Hàn, đủ cung điệu tột cùng đớn đau trăng ngã ngửa, trăng choáng váng, trăng tan tành, trăng vỡ đọng vàng khô… Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ - Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu. Nỗi đau định mệnh, cào xé thân thể ở nữ sĩ Lệ Thu. Còn em ngủ giữa trăng sao - Vi trùng canh gác thét gào bốn bên. Ấy là Trăng bệnh - Trăng xanh mét như người đau mới khỏi. Hàn Rượt trăngĐố trăng trăng chạy đằng trời - Tôi rú một tiếng trăng rơi tức thì. Lệ Thu cũng có lúc xua trăng. Trăng hỡi trăng! Em van trăng đừng sáng - Cho lòng em tê điếng trọn đêm nay… Đừng hôn lên vành môi sầu vạn kỷ - Trăng về đi! Trả lại bóng hoàng hôn. Nhưng rồi, níu trăng Đừng bỏ em quằn quại vũng cô liêu! Ấy là mối duyên “trời đày” giữa Trăng và thơ. Hàn thi sĩ tự ý thức trong vô thức nghiệp thơ. Té ra ta vốn là thi sĩ - Khao khát trăng gió mà không hay. Trong hố thẳm đau tuyệt vọng tột cùng cũng chính là đỉnh cao hạnh phúc dâng hiến khát vọng tột cùng với lời van lơn thầm nguyện. Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối - Xin tha thứ cho câu thơ tội lỗi - Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng - Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng. Hàn với sao sương anh nằm chết như trăng… trong ước nguyện sống mãi với trăng sao gấm vóc. Nữ sĩ Lệ Thu cũng gửi gắm niềm mơ ước ấy trong thơ, ấm tình giản dị. Vâng xác Thu tan rã - Nhưng hồn Thu hiển linh - Hóa gió khóc nhân tình - Làm trăng cài mái rạ.

Tín đồ Nguyễn Trọng Trí - Thu Cúc đều tìm lối thoát trong sự cứu rỗi của tôn giáo - tôn giáo Con Người và thăng hoa bay lên ở nhà nghệ sĩ phóng túng hào hoa nặng tình mộng mơ theo kiểu tư duy tôn giáo… Mỗi người tạo ra một thế giới mới cho riêng mình, vầng trăng như một nhân chứng, một biểu tượng tổng hòa được cả vẻ đẹp Khải Huyền Công giáo, Cực Lạc Phật giáo, và cả Chốn nước non thanh tú vừa đượm màu Thần tiên Đạo giáo vừa dân gian đời thường thanh sạch trinh nguyên của Đức tin thi sĩ Say thơ. Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh - Không mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ. Thơ là điểm tựa, vịn câu thơ đứng dậy ở bàn tay lạnh co trống vắng với lên trăng. Thơ là Kinh nhật tụng ước mơ nguyện cầu. “Thơ, đó là tiếng hát ở bên trong” (A.Lamartine) có vẻ bất bình thường mà rất đỗi thành thực. Khát vọng hạnh phúc bẩm sinh chính là nền tảng đạo đức làm Người.

3. Hàn nguyệt lạnh vọng ấm tinh cầu

Sinh thời, hai mảnh trăng thi sĩ vốn lạnh lắm. Thơ Hàn, càng đi xa càng ớn lạnh. Lạnh cả trong bơ vơ lời tự nguyện. Bây giờ tôi dại tôi điên - Chắp tay tôi lạy cả miền không gian. Giọt Lệ Thu lạnh trong Thu đã chết, chìm sâu trong tận cùng tuyệt vọng, ngỡ như mình là Người trong mồ. Trong mê lộ mê cung, trốn sâu tận cùng hay loay hoay đào thoát, liệu trăng nào len chiếu những ẩn khuất vô cùng.

Quy Nhơn phố gầy biển ngập nắng tràn trăng. Phố như bàn tay nhỏ - Vòng tay ôm biển xanh (Hạ Vũ). Ấy là ấm lên từ cái lạnh, đầy lên trong cái trống, rộng ra trong cái chật… nhờ những tấm lòng lấp lánh tình thương. Giọt Lệ Thu nhận ra Hàn. Thì ra anh cũng là thi sĩ - Đi tắm hoàng hôn lạc đến đây - Mi ướt long lanh tràn ngập ý - Đường đời đã gặp lắm chua cay. Kết thúc Biển chiều, họ nhận ra nhau, ta nhận ra mình trong hạt cát neo đậu kiếp người. Mở túi thơ ra: tìm vị đắng! - Bày thơ trên cát: nếm đau thương! Cảm thông sóng nhạc như trầm lắng - Đêm phủ từ từ chốn viễn phương.

Vậy là tiếng thơ của hai điệu hồn Hàn đã “vượt được đèo bay ra ngoài bao la dịu vợi” (Ai có về Quy Nhơn - Trần Đình Thái) để đến với rất nhiều trái tim người yêu thơ. Này chốn viễn phương, này tấc cố hương, này người chủ nhà, này khách đường xa, này mơ này thực, này người hôm qua, này người hôm nay, này người mai hậu… về đây, xem trăng có biến hình đổi dạng thay màu. Về gối đầu lên trăng, kéo sóng làm chăn, có nghe giọt sương trăng rơi đóa quỳnh đêm sáng vầng trăng ngược hướng lên từ Đất. Đêm sâu lắng! cổ thi thơm từng chữ… Ôi quỳnh hoa! sao em nhẹ gót hài? - Xiêm y trắng như linh hồn trinh nữ - Đông bàng hoàng say ảo giác liêu trai…

Như một vệt thiên di, từ Trăng vàng trăng ngọc Hàn thi sĩ (Tập 1), đến lần chuỗi ngọc trăng Hàn Lệ Thu. Tài sản con có gì đem đổi ngọc? - Để mà mua được Ngọc Quý Nước Trời?! (áp chót Tập 2)… Và mãi miên man nở đêm vàng ở cuối thế hệ 8x - áp chót tập cuối Thần nhạc sáng hơn trăng. Trong mùa thương khó, cô đơn cùng vĩnh hằng, Gia tài trắng hiến dâng. Con e ấp, ngại ngùng xòe bàn tay trắng - Trắng giấc mơ, trắng cả lối đi về (Kim Dạ).

L.T.H
(TCSH338/04-2017)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.