HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Mở đầu bài viết này, chúng tôi xin nói đến hai sự kiện văn học diễn ra gần đây.
Ảnh: internet
Sự kiện thứ nhất: Sáu giờ chiều, giờ Việt Nam, ngày 13/10/2016, khi Ủy ban Giải thưởng Nobel về văn học công bố Bob Dylan đoạt giải, thì ngay sau đó bản tin này được loan đi trên các trang mạng toàn cầu, gây ra những phản ứng trái chiều trong giới sáng tác và học thuật. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, trên các tờ báo lớn ở phương Tây đã xuất hiện những bài bình luận về sự kiện gây tranh cãi này. Ở Việt Nam, phản ứng của dư luận cũng không chậm hơn là mấy. Từ sáng sớm ngày 14/10, đồng loạt các báo đưa tin, bài về giải thưởng và liên tiếp mấy ngày sau đó phản ánh sự phân hóa trong thái độ của giới trí thức sáng tạo. Những người phản đối bày tỏ sự thất vọng và bất bình sâu sắc, khi Bob Dylan, vốn đã được vinh danh trong các giải thưởng âm nhạc, thường chỉ nằm trong top 20 những ứng viên của giải Nobel, trong khi nhiều tên tuổi sáng giá khác trọn đời hiến dâng cho văn chương chuyên nghiệp phải mòn mỏi chờ đợi xướng tên từ năm này sang năm khác. Những người tán thành thì hoan nghênh một quyết định dũng cảm và hợp thời của Ủy ban Nobel, đã mở rộng hàm nghĩa của văn học, đưa văn học bước ra khỏi tháp ngà của chữ nghĩa, và liên hệ trường hợp Bob Dylan với hai người nhạc sĩ du ca Việt Nam nổi tiếng là Trịnh Công Sơn và Trần Tiến. Cả hai phái đó ở Việt Nam không chỉ thảo luận trên các mặt báo mà cả quanh bàn cà phê và với tâm trạng khác nhau, cùng hồi hộp chờ đợi Bob Dylan lên tiếng sau thời gian im lặng khá lâu. Trong lúc đó, nhiều người kiên nhẫn và bình tâm đọc lại thơ và ca từ của Bob Dylan; đồng thời trong các hiệu sách những bản in cuối cùng của cuốn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan: như trăng và nguyệt? của John C. Schafer, qua bản dịch của Cao Thị Như Quỳnh, với lời giới thiệu của Cao Huy Thuần, cũng được bạn đọc tìm mua hết.
Sự kiện thứ hai xảy ra sáu tháng trước sự kiện thứ nhất. Tháng tư năm nay, nhà văn Nguyễn Thanh Việt đoạt giải thưởng Pulitzer cho tiểu thuyết đầu tay The Sympathiser. Dù đánh giá tác phẩm này từ góc độ nào, những người Việt yêu văn học đều phải thừa nhận đây là một giải thưởng danh giá mà lần đầu tiên một nhà văn Việt Nam nhận được. Ngay sau khi giải thưởng được công bố, một cơ quan làm sách ở Hà Nội đã đặt mua tác quyền cuốn sách này để dịch ra tiếng Việt và xuất bản trong nước. Hiện không rõ dự án này tiến hành đến đâu và có gặp trở ngại gì về thủ tục hay không, nhưng đối với bạn đọc có quan tâm, việc tiếp cận văn bản Anh ngữ của tác phẩm này không phải là quá khó. Và những gì Nguyễn Thanh Việt phát biểu chung quanh tác phẩm ấy cũng như về văn học nói chung vẫn được giới chuyên môn chú ý theo dõi. Hy vọng về một giải thưởng Nobel về văn học dành cho người Việt Nam lâu nay tưởng chừng chỉ là ảo vọng, nay đã thấy một tín hiệu của tương lai, dù có lẽ là một tương lai còn xa lắm.
Chúng tôi nêu hai sự kiện trên như là những dấu hiệu đời sống văn học nước ta tiếp cận với thời đại toàn cầu hóa và không đứng ngoài dòng chảy của tiến trình văn học thế giới.
Nếu hiện đại hóa, công nghiệp hóa là một chọn lựa thì toàn cầu hóa không hẳn là một chọn lựa. Đúng hơn, nó là hệ quả tất yếu, một hệ quả không cưỡng được của hiện đại hóa. Nếu thời gian để cái máy in chữ kim loại phát minh ở phương Tây đến với nước ta phải tính hàng trăm năm, thì khoảng thời gian đó đối với cái máy vi tính chỉ không đầy mươi năm. Toàn cầu hóa về văn hóa không tách rời với toàn cầu hóa về kinh tế và thị trường, tuy có thể chậm hơn một vài nhịp. Nếu việc ký kết và thực thi công ước Berne dường như không ảnh hưởng tức thì đến thị trường sách báo, băng đĩa ở nước ta; thì việc tham gia các hiệp định thương mại tự do chi phối rõ rệt sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nội địa Việt Nam, khi phải đối mặt với hàng hóa ngoại nhập và các hệ thống siêu thị nước ngoài trong cuộc cạnh tranh khốc liệt về chất lượng và giá thành. Người Việt Nam đang chứng kiến: một mặt, thịt bò, thịt gà, bánh kẹo… nước ngoài dần dần chiếm lĩnh sân nhà; mặt khác, các mặt hàng giày da, may mặc ngày càng sút giảm thị phần xuất khẩu, con cá da trơn bị áp thuế chống phá giá, trái thanh long bị kiểm định chất lượng ngặt nghèo và những đoàn xe chở vải thiều ùn tắc ở cửa khẩu Lạng Sơn.
Những người làm văn học chúng ta nghe những chuyện nói trên tưởng chừng như một cái gì xa xôi, thậm chí tầm thường, nhưng kỳ thực, đều liên quan đến văn học. Cả dân tộc đang đối mặt với toàn cầu hóa và có thể nói toàn cầu hóa đang tác động đến số phận đất nước, cũng như số phận từng gia đình, từng con người. Những con đập ở đầu nguồn đang làm cạn kiệt dần sông Cửu Long, những nhà máy điện hạt nhân cố tình xây dựng áp sát biên giới nước ta, thảm họa môi trường biển do Formosa gây ra, những nhà máy khai thác khoáng sản như những quả bom treo lơ lửng trên cao nguyên… đều có “yếu tố nước ngoài”, là hậu quả từ mặt trái của toàn cầu hóa. Những xung đột chủng tộc và chủ nghĩa khủng bố bây giờ không giới hạn trong một châu lục nào, miền đất nào, mà có thể động đến mọi nơi.
Trong thế giới đang biến đổi với không ít hiểm họa đó, văn học có thể làm gì để bảo vệ dân tộc, bảo vệ con người và bảo vệ chính mình? Văn học chủ lưu của dân tộc cần thu hút phù sa và dưỡng khí từ đất trời của Tổ quốc. Tuy rất kính trọng nhà văn hóa Phạm Quỳnh, và cũng như mọi người Việt Nam, rất yêu tiếng Việt và Truyện Kiều, nhưng từ lâu tôi không tin rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn; có gì mà lo, có gì mà sợ…”. Không, sự còn mất của đất nước không phải chỉ liên quan đến địa hạt ngôn ngữ hay văn học, dù đây là những giá trị vô cùng quan trọng; mà còn là, và chủ yếu là, ở cương vực, lãnh thổ, ở chủ quyền dân tộc, những nền tảng hiện thực cho văn hóa phát triển. Nói “mất văn hóa mới là mất tất cả” có thể gieo rắc ảo tưởng rằng mất chủ quyền, mất lãnh thổ chưa phải là điều đáng sợ. Văn hóa suy đồi chắc chắc sẽ làm suy nhược tinh thần dân tộc, làm rã rời sức mạnh bảo vệ đất nước. Nhưng chủ quyền dân tộc, cương vực, lãnh thổ của Tổ quốc là giá trị vĩnh cửu, là thực thể bất khả nhượng; trong khi văn hóa thì vận động và biến đổi.
Ngày trước ông bà chúng ta đã từng lo âu, thậm chí hoảng hốt trước làn sóng hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Người thiếu nữ trong thơ Nguyễn Bính chỉ mới ra tỉnh có một ngày, mang về một chút đổi thay, đã khiến người trai làng khổ tâm, hờn dỗi. Ngày nay bao nhiêu người con gái bỏ làng đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc… và mang về những đứa con hai giòng máu trước con mắt ngỡ ngàng của các chàng trai hàng ngày vùi đầu trên chiếu nhậu. Họ đã “mất bao nhiêu người tình” trong cuộc “toàn cầu hóa” dị thường này.
Tác động của toàn cầu hóa đối với gia đình Việt Nam không chỉ xuất hiện trên bề mặt như thế mà thôi. Trong âm thầm, một bộ phận tuổi trẻ đang bứt ra khỏi sợi dây liên kết về tinh thần và nới dần khoảng cách với các thế hệ trước không phải chỉ vì họ đi xa tìm kế mưu sinh, mà vì họ có blog, có facebook để kết nối với một thế giới khác do những quy luật giá trị khác điều chỉnh. Toàn cầu hóa đang biến không ít người trẻ trở thành những “người xa lạ”, theo nghĩa hoàn toàn trung tính - nghĩa là chưa định giá là tích cực hay tiêu cực, ngay trên quê hương mình. Không phải quá lời, khi có người nói một cách hình ảnh rằng toàn cầu hóa đang đi vào phòng riêng của từng gia đình.
Trước tình hình đó, chúng ta có nên hoảng hốt không? Có lẽ không nên, vì mấy lý do sau đây:
Một, sự hoảng hốt sẽ không đi đến đâu và không giải quyết được gì. Điều quan trọng là phải điềm tĩnh. Chúng ta không thể khước từ toàn cầu hóa, bởi trong thế giới liên lập ngày nay, không nước nào có thể đứng ngoài lề như đứng trên hoang đảo. Chúng ta chấp nhận toàn cầu hóa, nhưng chúng ta phải lựa chọn những khả năng và mục tiêu của toàn cầu hóa. Văn học và văn hóa góp phần định hướng cho sự chọn lựa này, vì chủ quyền của dân tộc và quyền con người, để phát huy phương diện nhân đạo của toàn cầu hóa và kiềm chế phương diện phi nhân của nó.
Hai, toàn cầu hóa là thử thách không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các dân tộc trên thế giới. Các tộc người, các tôn giáo, các nền văn minh đều đang bị giằng xé giữa hai chọn lựa: hòa nhập với thế giới hay co cụm lại và cố thủ trong những pháo đài để tự vệ? Đâu phải, so với các dân tộc khác, người Việt Nam không đủ năng lực giải quyết những vấn đề đặt ra cho đất nước mình. Đại đa số người Việt chúng ta không phải là những con đà điểu chui đầu vào cát, mà vẫn biết mở mắt và lắng nghe những động tĩnh của thời đại, để tìm cách ứng xử phù hợp nhất cho dân tộc mình.
Ba, sức tác động của toàn cầu hóa không phải là vô hạn. Toàn cầu hóa cũng có những vấn đề của nó và nó phải tự điều chỉnh trên con đường gập ghềnh của sự phát triển. Sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ, việc nước Anh rút ra khỏi Liên minh châu Âu, việc Donald Trump thắng cử tổng thống Hoa Kỳ và số phận TPP đang treo lơ lửng trước viễn cảnh phá sản là những dẫn chứng. Như một nghịch lý, những ai chưa quá hăng hái thì chưa phải là “những kẻ thua cuộc trong toàn cầu hóa”. Nhưng lịch sử thường khi cũng không có phần cho những kẻ chần chừ hay “chân trong chân ngoài” để sẵn sàng rút lui khi cần thiết.
Trở lại với đời sống văn học, mặc dù quá trình toàn cầu hóa ở Việt Nam chỉ mới ở bước khởi đầu, chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm.
Thứ nhất, về thành tựu sáng tác văn học thế giới, nửa đầu thế kỷ 20 hầu như không có nhà văn được giải thưởng Nobel nào được dịch ra tiếng Việt. Từ những năm 1960 ở miền Nam bắt đầu dịch Rabindranath Tagore, Anatole France, Thomas Mann, Pearl S. Buck, Hermann Hesse, André Gide, Ernest Hemingway, Albert Camus, Boris Pasternak, Jean-Paul Sartre, Ivo Andritch, John Steinbeck, Mikhail Sholokhov, Chmuel Yosef Agnon, Yasunari Kawabata, Samuel Beckett, Aleksander Solzhenitsyn, Heinrich Boll… Công việc này diễn ra với tốc độ nhanh hơn từ thời hội nhập và toàn cầu hóa. Chúng ta tiếp nhận khá nhanh nhạy những cái khác và cái mới so với kinh nghiệm thẩm mỹ của dân tộc, từ cả phương Tây lẫn phương Đông: Gabriel Gacxia Marquez, Claude Simon, Naguib Mahfouz, Octavio Paz, Nadine Gordimer, Toni Morrison, Kenzaburo Oe, Wislawa Szymborska, Gunter Grass, Cao Hành Kiện, V. S. Naipaul, J. M. Coetzee, Elfriede Jelinek, Orhan Pamuk, Doris Lessing, Le Clézio, Mario Vargas Llosa, Alice Munro, Mạc Ngôn, Patrick Modiano, Svetlana Alexievich… Giải thưởng Nobel không phải lúc nào cũng công tâm, nó từng bị điều tiếng vì nhầm lẫn hay bỏ sót những thiên tài; nhưng dù sao đây vẫn là giải thưởng có uy tín lớn và được chờ đợi nhất trên thế giới. Tất nhiên, những nhà văn đoạt giải Nobel chỉ là một phần nhỏ của thành tựu văn học thế giới và tác phẩm của họ cũng chỉ là một phần nhỏ trong số tác phẩm văn học nước ngoài được dịch sang tiếng Việt.
Về các khuynh hướng nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học thế giới, nếu trước đây phân tâm học, lý thuyết tiếp nhận, chủ nghĩa cấu trúc đi vào Việt Nam không ít vất vả, thì gần đây lý thuyết giải cấu trúc, phê bình hậu thực dân, phê bình sinh thái không phải chờ đợi quá lâu để được giới thiệu ở nước ta. Chỉ cần nhìn danh mục chuyên khảo của các giảng viên đại học và đề tài các luận văn, luận án cũng có thể ghi nhận phần nào mối quan tâm về học thuật trong trường đại học dưới tác động của toàn cầu hóa.
Thứ hai, là những người sản xuất trên lĩnh vực tinh thần, các nhà văn Việt Nam cũng chịu sự kiểm định của thị trường văn học như những người sản xuất nông sản hay thủy sản. Có điều, thước đo kiểm nghiệm ở đây là thị hiếu và sự thưởng thức của con người thời đại. Trong khi Truyện Kiều và thơ Hồ Xuân Hương vẫn chinh phục một lượng công chúng đương đại nước ngoài thì văn học hiện đại của ta lại không dễ gõ cửa tâm hồn của họ. Được đón nhận ở nước ngoài hiện nay chủ yếu không phải là tác phẩm của Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu… mà là của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư… Ngay những nhà văn ở hải ngoại tiếp cận rộng rãi với công chúng nước sở tại không phải là Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Mộng Giác… mà là Linda Lê, Nam Lê, Monique Trương, Nguyễn Thanh Việt… Sự đón nhận đó chắc không phải vì lý do chính trị thuần túy, mà hẳn còn nhiểu lý do khác nữa, cần được tìm hiểu khách quan, cặn kẽ.
Thứ ba, theo thiển ý, tình trạng nói trên có nguyên do từ cảm quan nghệ thuật của nhà văn và tâm lý tiếp nhận của bạn đọc, đồng thời cũng có nguyên do từ ngôn ngữ chuyển tải. Hãy thử xem xét hiện tượng này: trước 1975, ở miền Nam bạn đọc tiếp nhận và yêu thích văn học Nga đâu phải nhờ con đường dịch thuật trực tiếp từ tiếng Nga mà qua trung gian của tiếng Pháp, tiếng Anh. Còn sau 1975, nhiều tác phẩm văn học Việt Nam được dịch sang tiếng Nga và phát hành hàng chục ngàn bản, vậy mà đây vẫn không phải là chiếc cầu để văn học Việt Nam đi ra thế giới. Một hiện tượng khác: chúng ta đã dịch ra tiếng Việt rất nhiều tác phẩm cổ điển và hiện đại Trung Quốc, cả văn học tinh hoa lẫn văn học đại chúng, vậy mà kết quả ở chiều ngược lại thật là nhỏ bé. Tình trạng “nhập siêu” quá lớn trong giao lưu văn học này tương ứng với nhập siêu trong thương mại mà nước ta phải chịu đựng. Phải chăng ở đây không chỉ có sự chi phối của thị trường mà có cả sự “điều tiết” của chính sách?
Những dữ kiện trên đây có thể giúp ta cân nhắc, xem xét để đi đến những chọn lựa trong giao lưu văn học thời toàn cầu hóa. Như người ta thường nói, khi tham gia một cuộc chơi lớn, hoặc ta phải chấp nhận luật chơi của nó, hoặc ta áp đặt luật chơi của ta. Với lực và thế của nước ta, khả năng thứ hai chỉ là chuyện viển vông. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta chấp nhận vô điều kiện luật chơi của người khác. Bởi văn học mãi mãi vẫn là tiếng nói phản ứng của lương tri trước mọi lạm dụng và cưỡng ép. José Saramago, nhà văn Bồ Đào Nha được giải thưởng Nobel năm 1998, là người phản đối, đôi khi hơi cực đoan, những định chế của toàn cầu hóa gò ép nhân loại vào những khuôn khổ. Điều thú vị là chính nhờ toàn cầu hóa, trong đó giải Nobel cũng là một định chế, mà tác phẩm của ông, “mới gọi được cánh cửa trái tim của những người cùng thời” như ông từng ao ước.
H.N.P
(TCSH335/01-2017)
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.