GS Trần Đình Sử - Ảnh: antgct.cand.com.vn
Văn học và hiện thực là một trong những vấn đề trung tâm của lí luận văn học, cho đến nay, dù có rất nhiều hệ thống lí luận giải thích khác nhau, vẫn chưa có lí luận nào được nhất trí công nhận. Đó là vì mỗi lí luận đều xây dựng theo một cái khung lí tính, với điểm quan sát nhất định để khái quát thực tiến văn học thành nguyên lí. Theo sự phân tích của nhà lí luận Mĩ M. H. Abrams, mọi khung lí luận đều xây dựng trên quan hệ của các yếu tố cơ bản họp thành hoạt động nghệ thuật sau đây:
Từ quan hệ tác phẩm (văn học) với thế giới ta có lí thuyết mô phỏng cổ xưa và thuyết phản ánh ngày nay. Từ quan hệ nghệ sĩ với tác phẩm, ta có lí thuyết biểu hiện, sáng tạo. Từ quan hệ tác phẩm (văn học) với người thưởng thức ta có lí thuyết giáo huấn thực dụng truyền thống và lí thuyết giao tiếp, tiếp nhận hiện đại. Từ bản thân tác phẩm trong quan hệ nghệ sĩ và người tiếp nhận ta có vấn đề nội dung, ý nghĩa, kí hiệu, trò chơi, giải trí. Như thế vấn đề văn học và hiện thực, cho dù bao quát cả quan hệ tác giả/hiện thực, người đọc/hiện thực vào trong đó thì cũng chỉ bao quát có một phương diện của mô hình hoạt động nghệ thuật nói chung, và quan hệ đó tác động đến quan điểm đối với các phương diện quan hệ còn lại. Từ quan điểm đó, không có lí do nào để hạ thấp hay phủ nhận mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cũng như phản ánh luận. Xét từ phương diện này văn học phản ánh hiện thực vẫn là một nguyên lí cơ bản, quan trọng không thể thiếu, nhưng chỉ là một phương diện mà thôi. Phản ánh, theo nghĩa khoa học là sản phẩm của “tác động qua lại”, do đó nó không phải chỉ là “tái hiện”, “mô phỏng” như nay hiểu, mà nó còn là phản ứng, đáp trả, phủ nhận... cho nên những người phát biểu “văn học không mô phỏng (hay phản ánh) hiện thực, mà chỉ phát hiện, biểu hiện thực tại (Cassirer, Adorno...), thậm chí phủ nhận hiện thực, phê phán hiện thực, bóc trần các mặt nạ của hiện thực, vượt lên hiện thực, thì cũng vẫn là nằm trong phạm trù “phản ánh” hiện thực, bởi họ đã hiểu phản ánh rộng hơn, bao quát hơn. Chẳng hạn, bản chất nghệ thuật, tính nghệ thuật chính là sự phủ định tính bản thể của thực tại. Hình tượng văn học là sự phủ định đối với chất liệu thực tế của hiện thực. Lời văn nghệ thuật là sự phủ định lời ăn tiếng nói hằng ngày. Trước đây ta chỉ khẳng định phản ánh luận như là lí thuyết tái hiện, nhận thức là đã phiến diện, đối với các lí thuyết khác không được coi là phản ánh luận đều có thái độ phê phán, thù địch, như thế lại càng phiến diện. Hiểu thế, trong bài này chúng tôi chỉ xét một mối quan hệ là văn học phản ánh hiện thực, nhưng không xem nó là duy nhất, quyết định tất cả. 2. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực và thời đại Mệnh đề “văn học phản ánh hiện thực” từng bị hiểu giản đơn thành sao chép các sự kiện của thời đại, tôn sùng nguyên mẫu, miêu tả người thật việc thật, phản ánh các mâu thuẫn bản chất của xã hội, thời đại... Mặc dù có lúc đã sáng tạo nên những sáng tác đáp ứng yêu cầu thực tế lịch sử, nhưng do nghèo nàn về tư tưởng và thẩm mĩ, thiếu sức tưởng tượng, cá tính sáng tạo nhợt nhạt... cách hiểu đó đã bị phê phán vào thời đổi mới những năm 80 - 90 thế kỉ XX. Tuy bị hiểu sơ lược, nhưng bản thân mệnh đề đó vẫn có cơ sở. Bởi đó là mệnh đề xác định một cách tổng quát nhất mối quan hệ giữa văn học với hiện thực và thời đại, không có cách biểu đạt khác. Thuật ngữ “mô phỏng” có từ thời cổ đại. Xưa nhất, Platon hiểu “mô phỏng” (mimesis) chỉ là mô phỏng bề ngoài, chưa phải chân lí(2), đến Aristote đã hiểu đó là mô phỏng con người, hành động, tự nhiên. Đối với Aristote nghệ thuật không mô phỏng cái dĩ nhiên, mà mô phỏng cái khả nhiên của thế giới để tạo ra thế giới có giá trị triết lí và thẩm mĩ. Theo ông thơ ca (tức văn học) mang đậm chất triết lí hơn lịch sử. Từ thời Phục hưng cho đến thời Cận đại cho đến trước chủ nghĩa lãng mạn tư tưởng mô phỏng hiện thực vẫn là tư tưởng chủ yếu của phê bình. Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội (Stanhdal), nhà văn là thư kí của thời đại (Balzac), nếu là nhà văn vĩ đại thì tác phẩm của anh ta phản ánh ít ra vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng (Lênin). Đối với các bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, phản ánh hiện thực có nghĩa là tìm kiếm các giá trị nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ của đời sống, lột trần các dối trá, phơi bày mọi ung nhọt, xé toạc mọi mặt nạ, là dấn thân vào tiến trình tiến bộ của xã hội. Các tư tưởng đó đã diễn đạt khá đúng và hay về mối quan hệ giữa văn học và đời sống lịch sử trên tầm vĩ mô, nghĩa là toàn bộ các sự kiện, nhân vật, tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn học nghệ thuật đều là sự phản ánh của đời sống xã hội. Cho dù quan niệm phương Đông xưa xem văn học là dùng để nói chí, hoặc chủ nghĩa lãng mạn phương Tây xem văn học “biểu hiện tình cảm, khát vọng chủ quan của con người” thì cái chí ấy, tình cảm ấy cũng đều là phản ánh đời sống xã hội. Tuy vậy, coi phản ánh luận là lí thuyết duy nhất để giải thích văn học nghệ thuật là chưa đủ, vì với tư cách là nhận thức luận, phản ánh luận chưa thể đi vào các quy luật sáng tạo của văn học nghệ thuật cũng như quy luật tiếp nhận của người đọc. Để hiểu nghệ thuật người ta phải nghiên cứu quy luật sáng tạo, tâm lí học sáng tạo, kí hiệu học, tiếp nhận nghệ thuật... nhưng không vì thế mà phủ nhận văn học phản ánh hiện thực, tức là phản ánh sự kiện, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con người trong văn học. 3. Hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa do thực tiễn gợi ra Quan niệm hiện thực như là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người đã trở nên siêu hình, không phù hợp thực tế. Hiện thực là thực tại trong mối quan tâm của con người. Từ đó, mỗi hình thái ý thức xã hội có một đối tượng hiện thực tương ứng với nó. Hiện thực của văn học không giống với hiện thực của khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và chính trị. Một thời gian rất dài chúng ta hiểu “hiện thực” của văn học là cái thực tế hiểu theo một định hướng hẹp (hiện thực đấu tranh thống nhất nước nhà, hiện thực đấu tranh hai con đường, hiện thực phong trào thi đua... mà thực chất đó là hiện thực đã được chính trị hoá). Hiện thực của văn học không tách rời với chính trị, nhưng không đồng nhất với hiện thực của chính trị. Chẳng hạn, hiện thực chính trị không nhất thiết bao gồm hiện tượng vô cảm của cá nhân đối với số phận của đồng loại, sự rung cảm trước thiên nhiên... nhưng đó là điều không thể bỏ qua đối với hiện thực của văn học. Điều này L. Tolstoi đã nói rất hay trong tác phẩm Luserne. Có thể hiểu, hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa mà con người sống trong đó. Vũ trụ, thiên nhiên, con người, xã hội, văn hoá, đồ vật... chỉ khi có ý nghĩa đối với con người mới là hiện thực. Tất cả những gì mà con người tìm thấy có ý nghĩa đối với cuộc sống và từ đó khám phá những con đường để đi tới cuộc sống có ý nghĩa tốt đẹp hơn, thú vị hơn trong nghệ thuật đều là hiện thực. Thực tiễn cho phép người ta càng ngày càng phát hiện ra nhiều ý nghĩa của thế giới đối với đời sống và do đó mà cả đối với nghệ thuật. Ý nghĩa của sự vật thay đổi theo quá trình thực tiễn. Không có hiện thực bất biến, muôn thuở. Văn học phản ánh hiện thực đó trong tính đa diện, toàn vẹn và tính thời đại. Thực tiễn là tính chất quan trọng nhất của hiện thực con người. Thực tiễn là hoạt động của con người để vượt qua hữu hạn nhằm hướng tới lí tưởng vô hạn và tự do. Con người là giống vật luôn ý thức sự hữu hạn của chính mình từ trong mọi hoạt động sống như cô đơn, tuổi thọ, khả năng chinh phục thế giới và bản thân, hữu hạn trong sản xuất, trong tình yêu, trong sáng tạo, nhận thức, cảm nhận. Trong hoạt động vượt lên chính mình con người nếm trải mọi tình cảm từ vui sướng, tự hào, cao cả, đến bất lực, bi đát, khôi hài, nhục nhã, cay đắng... Vì vậy hiện thực con người rất phong phú, phức tạp, muôn màu. 4. Hiện thực của văn học - lĩnh vực của cái khả nhiên Văn học nói chung không phản ánh hiện thực như các sự kiện hiện tồn như báo chí, thông tấn, lịch sử biên niên, tư liệu... Văn học phản ánh hiện thực trong những ý nghĩa do thực tế và các xu thế, khả năng đời sống gợi ra. Vì thế từ xưa Aristote đã nói văn học (thi ca) do mô phỏng cái khả nhiên mà giàu tính triết lí hơn lịch sử. Văn học ngày nay vẫn thế, thiên về phản ánh cái khả nhiên của đời sống, bởi đặc điểm con người là không chỉ quan tâm thực tại mà còn quan tâm hơn tới khả năng, tương lai. Người ta có thể chịu khổ, hi sinh, nếu điều đó có ý nghĩa đối với tương lai của đất nước, con cháu mình hoặc loài người nói chung(3). Trong triết học duy vật biện chứng người ta hiểu hiện thực là một cặp phạm trù đối lập và chuyển hoá cho nhau. Hiện thực là cái tồn tại với tư cách là kết quả thực hiện của một khả năng nào đó, còn khả năng là khuynh hướng phát triển tiềm tại của một hiện thực nào đó. Hiện thực thì không phải khả năng, còn khả năng thì chưa phải là hiện thực. Nhìn bề ngoài thì rõ ràng người ta đã loại bỏ khả năng ra ngoài hiện thực, hạn chế văn học trong việc phản ánh các sự việc, con người hiện tồn. Chúng ta đã làm như thế và về lí thuyết đã từng đối lập văn học hiện thực và văn học lãng mạn. Nếu hiểu đúng, thì về thực chất hiện thực bao hàm cả cái khả năng, và thiếu tính khả năng thì hiện thực chưa phải là hiện thực của văn học. Chính vì là cái khả năng, nghĩa là cái chưa trở thành hiện thực, cho nên nhà văn mới có thể dùng hư cấu sáng tạo để làm cho cái khả năng tiềm tại hiện hình lên mặt giấy cho mọi người quan sát, thể nghiệm, thực hiện chức năng dự báo của văn học. Con người không chỉ quan tâm hiện tại, nó còn quan tâm tương lai gấp trăm nghìn lần. Nó sợ nhất là hiện thực không thay đổi hoặc thay đổi bất lợi cho nó. Nó không lo sợ cái hiện thực vì nó đã có rồi, biết rồi, mà sợ nhất sự bất trắc của tương lai. Hiện thực vốn đã vô cùng phức tạp, song khả năng là lĩnh vực còn rộng lớn và phong phú hơn nhiều. Các khả năng hiện thực và khả năng phi hiện thực, văn học đều quan tâm. Trong hiện thực tồn tại vô vàn khả năng, nhưng do điều kiện cụ thể, hiện thực chỉ là sự thực hiện của một trong các khả năng nào đó. Các khả năng khác tuy đã mất cơ hội được thực hiện, nhưng chúng vẫn có ý nghĩa để suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Như thế hiện thực của văn học rộng lớn gấp nhiều lần so với hiện thực của lịch sử. Cái khả nhiên còn là hiện thực độc nhất vô nhị của văn học, bởi vì nó là những khả năng, cho nên thích hợp cho nghệ sĩ lựa chọn về mặt lí tưởng, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thích hợp với trí tưởng tượng, với hư cấu sáng tạo. Phản ánh cái khả nhiên ngoài chức năng dự báo còn có chức năng giải phóng tư duy con người khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc, bất di dịch. 5. Hiện thực - nguồn kí hiệu tự nhiên vô tận và sức mạnh của chủ nghĩa hiện thực. Trước đây nói đến hiện thực ta thường chỉ nói đối tượng phản ánh là nguồn nội dung nhận thức của văn học. Nhưng xét từ góc độ kí hiệu học, nếu hiện thực là thế giới ý nghĩa thì toàn bộ các sự vật cụ thể, cảm tính - những yếu tố mang nghĩa xung quanh con người lại đều là những kí hiệu tự nhiên ai cũng thấy, nhớ và hiểu. Các hiện tượng, sự vật, con người - các yếu tố mang nghĩa, do lặp đi lặp lại, cho nên chúng trở thành kí hiệu của các khả năng cuộc sống tiềm ẩn. Nếu nhà văn biết nắm bắt, lựa chọn cái nổi bật, cái lặp lại, cái đặc trưng, sử dụng chúng như những ngôn ngữ kinh nghiệm quen thuộc thì sáng tác của anh ta dễ được công chúng đồng cảm, hiểu, chính vì thế, ngôn ngữ hiện thực, sự miêu tả các hình tượng như thật từ lâu đã được nghệ thuật sử dụng và sáng tạo. Ngôn ngữ tự nhiên này phong phú vô tận, khả năng diễn đạt hiện thực bằng ngôn ngữ hiện thực tự nhiên cũng vô tận. Đó là lí do vì sao ngôn ngữ hiện thực cho đến nay vẫn là ngôn ngữ gần gũi, yêu thích của nhân loại. Ngôn ngữ huyền thoại, hoang đường, gắn với mẫu gốc, biểu tượng cũng có giá trị phổ biến nên cũng được sử dụng lâu dài như một ngôn ngữ văn học hữu hiệu, nhưng do quan niệm về “chủ nghĩa hiện thực độc tôn” một thời mà nhiều khi nó bị bài xích. Nhưng trong văn học dù có sử dụng yếu tố ngôn ngữ biểu đạt tượng trưng như truyện và tiểu thuyết của Kafka, V. Hugo thì ngôn ngữ hiện thực ở trong đó vẫn có vị trí nền tảng. 6. Tác phẩm văn học - sáng tạo kí hiệu sinh nghĩa Một thời gian dài do quan niệm sơ lược về phản ánh hiện thực, cho rằng phản ánh là tái hiện đời sống như sự phản chiếu gương, như chụp ảnh, giống như thật. Thực ra trong đầu óc con người không có gương hay máy chụp ảnh nào hết, do đó, các thuật ngữ phản ánh, tái hiện, miêu tả... đều chỉ có ý nghĩa ẩn dụ, nghĩa là nói, (hoặc tin rằng) ý thức con người có khả năng nhận thức đúng như sự vật vốn có trong thực tế. Đây cũng là lí do mà Lênin đã dùng các từ “sao chép”, “chụp ảnh” để chỉ khả năng phản ánh của ý thức trong sách Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Đáng tiếc là nhiều người cố tình hiểu các thuật ngữ ấy theo nghĩa đen (không phải nghĩa ẩn dụ) để mà bắt bẻ, phê phán. Tuy vậy cuốn sách của Lênin viết trong điều kiện đi đày ở Siberi, sách vở tham khảo thiếu, ngay cuốn Hệ tư tưởng Đức của Marx và Engels phải đến năm 1934 mới xuất bản, ông không được đọc, cho nên những đoạn viết về ý thức và ngôn ngữ Lênin chưa được tham khảo(4). Ngày nay với các lí thuyết kiến tạo, người ta cho thấy sự phản ánh thực chất là một sự kiến tạo của ý thức con người. Mọi hình ảnh, từ giản đơn đến phức tạp đều do hoạt động kiến tạo tinh vi trong đầu óc con người trên cơ sở thông tin mà giác quan và kinh nghiệm tích luỹ. Điều này trong Tư bản luận Marx cũng nói đến trong từ “biến cải” trong đầu óc người. Hiểu như vậy thì phản ánh là kiến tạo, mà đã kiến tạo tức là có vai trò sáng tạo của thể. Phản ánh và sáng tạo thông nhất với nhau. Các hình thái ý thức chỉ khác nhau trong cách kiến tạo, chứ không khác nhau ở chỗ có hình thái thiên về phản ánh, có hình thái ý thức thiên về sáng tạo như có người hiểu. Khoa học kiến tạo thành khái niệm, còn nghệ thuật kiến tạo thành hình tượng hoặc giai điệu cảm tính. Thực chất kiến tạo tác phẩm nghệ thuật là tạo nên một “văn bản” có khả năng sinh nghĩa, người đọc qua hệ thống các biểu tượng, kí hiệu, kết cấu sẽ lại kiến tạo ý nghĩa của nó. Các nhân vật, chi tiết, hình ảnh thực chất đều là những kí hiệu thuộc các cấp độ khác nhau, được tổ chức vào hệ thống, có mở đầu, có kết thúc, có tương phản, đối chiếu... tức là có cấu trúc, từ đó mà tạo nên nghĩa của tác phẩm. Từ đó ta thấy chủ nghĩa hiện thực là một kiểu kiến tạo kí hiệu mà chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa lãng mạn cũng là những kiến tạo kí hiệu khác, không phân biệt hơn kém về giá trị nhận thức và nghệ thuật. R. Jakobson căn cứ vào cặp đối lập trục dọc và trục ngang, cho rằng ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện thực là kiến tạo văn bản theo nguyên tắc tương cận, đặt các sự vật bên nhau theo sự liên tục, liên tiếp để chúng bộc lộ ý nghĩa như thật, còn ngôn ngữ của chủ nghĩa lãng mạn là thay thế cái này bằng cái khác, tạo thành những ẩn dụ về hiện thực. 7. Nhìn lại lí thuyết chủ nghĩa hiện thực và lí thuyết điển hình Chủ nghĩa hiện thực về lí luận, chủ trương phản ánh đời sống như nó vốn có trong thực tế, tức là chủ trương dùng chi tiết chân thực lấy từ đời sống. Theo quan niệm của tôi, đó là những kí hiệu tự nhiên được chọn lọc và nghệ thuật hoá. Chủ nghĩa hiện thực là kiểu sáng tác sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để sáng tác. Nhân vật điển hình của văn học lâu nay hiểu là loại nhân vật có sự thống nhất giữa cái chung khái quát cao và cái cá biệt đặc thù, thì “cái chung” là nghĩa, cái được biểu đạt, còn “cái cá biệt” là yếu tố cảm tính đóng vai trò cái biểu đạt, hai mặt này họp lại tạo nên cấu trúc của kí hiệu văn học. Lí luận điển hình ngoài yêu cầu về cái chung như là yêu cầu về tính khái quát cao, có giá trị phổ biến, còn yêu cầu về tính cụ thể, cá thể, độc đáo, đặc trưng, cá tính không lặp lại... đều chung chung, bởi nó không đi ra ngoài cấu trúc chung của kí hiệu(5). Biêlinski nói điển hình là “người lạ quen biết”, là “nhân vật mà tên của nó trở thành danh từ chung” cũng nhằm chỉ đặc điểm của hình tượng nhân vật như một kí hiệu. Một đặc điểm quan trọng nữa của chủ nghĩa hiện thực, theo tôi, là loại kí hiệu mà giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt có mối liên hệ nhân quả. Miêu tả người vô sản có nghĩa là khái quát về vô sản, miêu tả địa chủ tức là khái quát về địa chủ, phong kiến. Engels khi nói rằng chủ nghĩa hiện thực ngoài chi tiết chân thực ra còn phải tái hiện tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Đã nâng tính nhân quả lên một mức cao hơn, ông yêu cầu các chi tiết giống như thật đến mức có thể có giá trị nhận thức về lịch sử. Ông lại đòi hỏi nhận thức về bản chất giai cấp, xã hội của nhân vật như trong thực tế. Ông đã phê bình tác phẩm Cô gái thành thị của Hackness là miêu tả giai cấp công nhân trong đó thiếu tính tích cực như nó vốn có ở khu phố Đông Luân Đôn. Nhưng quan hệ giữa mặt biểu đạt và mặt được biểu đạt trong kí hiệu lại có tính chất võ đoán, do vậy, bản chất giai cấp của nhân vật có lúc làm nên tính điển hình, nhưng nhiều lúc tính điển hình lại nằm ở chỗ khác. Ví dụ như ở hình tượng AQ, tính giai cấp của y không làm nên tính điển hình, còn cái phép thắng lợi tinh thần rất điển hình thì lại không thuộc về tính giai cấp của y. Do vậy tuyệt đối hoá mối liên hệ nhân quả trong điển hình hiện thực sẽ làm nghèo sự đa dạng của khái quát văn học. Hơn nữa, tạo thói quen đọc nhầm văn học. Trong truyện cổ tích ông vua có về giai cấp phong kiến đâu! Trong lí luận văn học hiện thực điển hình là một kí hiệu xây dựng theo ngôn ngữ tự nhiên, còn các kiểu hình tượng khác sử dụng kí hiệu huyền thoại, hoang tưởng. Phân tích về mặt cấu trúc kí hiệu ta thấy điển hình không khác gì hình tượng phi điển hình. Nó chỉ là loại hình tượng đặc thù chứ không có gì tỏ ra là khái quát cao cấp hơn, chân thực hơn các hình tượng nghệ thuật khái quát theo ngôn ngữ nghệ thuật khác. Suy nghĩ lại về khái niệm điển hình không có nghĩa là phủ định điển hình và chủ nghĩa hiện thực, mà chỉ là muốn nói rằng đó là một ngôn ngữ nghệ thuật có tác động to lớn, sâu rộng, được bạn đọc yêu thích, nhưng không hề là phương pháp sáng tác hay ngôn ngữ nghệ thuật có giá trị nhận thức cao hơn ngôn ngữ của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại mà một thời chúng ta đã gán cho nó. Trong thực tế so với các ngôn ngữ khác, ngôn ngữ tự nhiên của chủ nghĩa hiện thực do dễ đọc dễ cảm, vẫn được đông đảo nhà văn và người đọc yêu thích đón nhận. Tuy vậy lạm dụng ngôn ngữ này sẽ kìm hãm sự phát triển năng lực sáng tạo cũng như thưởng thức trong thói quen truyền thống, xa lạ với ngôn ngữ khác và sẽ khó khăn trong giao lưu văn học trong thời đại hội nhập. 8. Sự đa dạng của các phương pháp sáng tạo phản ánh hiện thực Theo cách hiểu nêu trên, mọi sáng tác nghệ thuật đều phản ánh hiện thực theo những cái khả nhiên mà nghệ sĩ lựa chọn để nêu lên những vấn đề bức xúc của nhân sinh, hướng tới tạo lập một nhãn quan mới về thế giới cho người đọc. Sự khác nhau của sáng tác nằm ở phương pháp sáng tác với tư cách là ngôn ngữ phản ánh khác nhau. Do đó để phản ánh hiện thực sâu sắc, rộng lớn, không phải chỉ độc tôn một chủ nghĩa hiện thực như trước đây mà có thể sử dụng nhiều phương pháp - ngôn ngữ nghệ thuật khác. Dòng ý thức, theo tôi hiểu cũng là một ngôn ngữ hiện thực, bởi nhà văn sử dụng ngôn ngữ chiêm nghiệm bên trong của dòng ý thức của mỗi con người mà do một thời chúng ta chỉ quen với ngôn ngữ khách quan bên ngoài mà bỏ quên nó đi. Ngôn ngữ huyền thoại, hoang tưởng, nghịch dị, xáo trộn không gian thời gian cũng không xa lạ với tư duy kì ảo dân gian và sáng tác của các tác giả lớn như Bồ Tùng Linh, Kafka, Marquez... đều có giá trị trong việc sáng tạo ra những hình tượng văn học có tầm cỡ dân tộc và nhân loại. Như thế để khái quát hiện thực hôm nay chúng ta có thể sử dụng các loại ngôn ngữ nghệ thuật đa dạng nhất. Hà Nội, 15 - 6 - 2010 T.Đ.S (259/9-10) -------------- (1)- M. H. Abrams. Gương và đèn. Lí thuyết lãng mạn và truyền thống phê bình văn học. Lê Tri Ngưu, Trương Chiếu Tiến, Đồng Khánh Sinh dịch, Vương Ninh hiệu đính. Đại học Bắc Kinh, Bắc kinh, 1992, tr. 6. (2) Platon cho thế giới tự nhiên mô phỏng ý niệm tuyệt đôi, vĩnh hằng, còn nghệ thuật thì mô phỏng tự nhiên, còn kém hơn tự nhiên, bởi vì nó “chỉ là sự mô phỏng tác phẩm của kẻ khác”, là sự mô phỏng hạng ba. Người đối thoại hỏi Socrat: “Vậy nhà thơ viết bi kịch cũng là người mô phỏng, vậy anh ta cũng giống như mọi kẻ mô phỏng khác, cách biệt ba lần so với vị chúa tể và chân lí những ba lần có phải không? Socrat trả lời: Hình như đúng như thế. (3) Xin xem: Văn học như là tư duy về cái khả nhiên, Báo Văn nghệ, 2008. (4) Cuốn này đến năm 1934 mới được xuất bản ở Nga. (5) Chính vì thế M. Gorki ngoài điển hình Oblomov, điển hình con người thừa trong văn học Nga, từng nói các hình tượng trong truyện cổ tích đều điển hình cho cái thiện, cái ác. Nghĩa là ở đâu cũng tìm thấy điển hình, không riêng gì văn học hiên thực. Còn một thời gian dài người Trung Quốc tranh luận về tính điển hình của nhân vật AQ trong truyện của Lỗ Tấn mà cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Theo tôi đó là vì khái niệm điển hình chưa đạt đến mức chuẩn mực của một khái niệm khoa học, nghĩa là nó chỉ là một khái niệm cảm tính về một hình tượng độc đáo có ý nghĩa phổ quát mà thôi. |
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.