Văn học và hiện thực trong tầm nhìn hiện đại

08:48 07/10/2010
TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật

GS Trần Đình Sử - Ảnh: antgct.cand.com.vn

Văn học và hiện thực là một trong những vấn đề trung tâm của lí luận văn học, cho đến nay, dù có rất nhiều hệ thống lí luận giải thích khác nhau, vẫn chưa có lí luận nào được nhất trí công nhận. Đó là vì mỗi lí luận đều xây dựng theo một cái khung lí tính, với điểm quan sát nhất định để khái quát thực tiến văn học thành nguyên lí. Theo sự phân tích của nhà lí luận Mĩ M. H. Abrams, mọi khung lí luận đều xây dựng trên quan hệ của các yếu tố cơ bản họp thành hoạt động nghệ thuật sau đây:

Thế giới (hiện thực)
|
Tác phẩm
/
Nghệ sĩ (tác giả) Người tiếp nhận(1)


Từ quan hệ tác phẩm (văn học) với thế giới ta có lí thuyết mô phỏng cổ xưa và thuyết phản ánh ngày nay. Từ quan hệ nghệ sĩ với tác phẩm, ta có lí thuyết biểu hiện, sáng tạo. Từ quan hệ tác phẩm (văn học) với người thưởng thức ta có lí thuyết giáo huấn thực dụng truyền thống và lí thuyết giao tiếp, tiếp nhận hiện đại. Từ bản thân tác phẩm trong quan hệ nghệ sĩ và người tiếp nhận ta có vấn đề nội dung, ý nghĩa, kí hiệu, trò chơi, giải trí. Như thế vấn đề văn học và hiện thực, cho dù bao quát cả quan hệ tác giả/hiện thực, người đọc/hiện thực vào trong đó thì cũng chỉ bao quát có một phương diện của mô hình hoạt động nghệ thuật nói chung, và quan hệ đó tác động đến quan điểm đối với các phương diện quan hệ còn lại. Từ quan điểm đó, không có lí do nào để hạ thấp hay phủ nhận mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cũng như phản ánh luận. Xét từ phương diện này văn học phản ánh hiện thực vẫn là một nguyên lí cơ bản, quan trọng không thể thiếu, nhưng chỉ là một phương diện mà thôi. Phản ánh, theo nghĩa khoa học là sản phẩm của “tác động qua lại”, do đó nó không phải chỉ là “tái hiện”, “mô phỏng” như nay hiểu, mà nó còn là phản ứng, đáp trả, phủ nhận... cho nên những người phát biểu “văn học không mô phỏng (hay phản ánh) hiện thực, mà chỉ phát hiện, biểu hiện thực tại (Cassirer, Adorno...), thậm chí phủ nhận hiện thực, phê phán hiện thực, bóc trần các mặt nạ của hiện thực, vượt lên hiện thực, thì cũng vẫn là nằm trong phạm trù “phản ánh” hiện thực, bởi họ đã hiểu phản ánh rộng hơn, bao quát hơn. Chẳng hạn, bản chất nghệ thuật, tính nghệ thuật chính là sự phủ định tính bản thể của thực tại. Hình tượng văn học là sự phủ định đối với chất liệu thực tế của hiện thực. Lời văn nghệ thuật là sự phủ định lời ăn tiếng nói hằng ngày. Trước đây ta chỉ khẳng định phản ánh luận như là lí thuyết tái hiện, nhận thức là đã phiến diện, đối với các lí thuyết khác không được coi là phản ánh luận đều có thái độ phê phán, thù địch, như thế lại càng phiến diện. Hiểu thế, trong bài này chúng tôi chỉ xét một mối quan hệ là văn học phản ánh hiện thực, nhưng không xem nó là duy nhất, quyết định tất cả.

2. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực và thời đại

Mệnh đề “văn học phản ánh hiện thực” từng bị hiểu giản đơn thành sao chép các sự kiện của thời đại, tôn sùng nguyên mẫu, miêu tả người thật việc thật, phản ánh các mâu thuẫn bản chất của xã hội, thời đại... Mặc dù có lúc đã sáng tạo nên những sáng tác đáp ứng yêu cầu thực tế lịch sử, nhưng do nghèo nàn về tư tưởng và thẩm mĩ, thiếu sức tưởng tượng, cá tính sáng tạo nhợt nhạt... cách hiểu đó đã bị phê phán vào thời đổi mới những năm 80 - 90 thế kỉ XX. Tuy bị hiểu sơ lược, nhưng bản thân mệnh đề đó vẫn có cơ sở. Bởi đó là mệnh đề xác định một cách tổng quát nhất mối quan hệ giữa văn học với hiện thực và thời đại, không có cách biểu đạt khác. Thuật ngữ “mô phỏng” có từ thời cổ đại. Xưa nhất, Platon hiểu “mô phỏng” (mimesis) chỉ là mô phỏng bề ngoài, chưa phải chân lí(2), đến Aristote đã hiểu đó là mô phỏng con người, hành động, tự nhiên. Đối với Aristote nghệ thuật không mô phỏng cái dĩ nhiên, mà mô phỏng cái khả nhiên của thế giới để tạo ra thế giới có giá trị triết lí và thẩm mĩ. Theo ông thơ ca (tức văn học) mang đậm chất triết lí hơn lịch sử. Từ thời Phục hưng cho đến thời Cận đại cho đến trước chủ nghĩa lãng mạn tư tưởng mô phỏng hiện thực vẫn là tư tưởng chủ yếu của phê bình. Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội (Stanhdal), nhà văn là thư kí của thời đại (Balzac), nếu là nhà văn vĩ đại thì tác phẩm của anh ta phản ánh ít ra vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng (Lênin). Đối với các bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, phản ánh hiện thực có nghĩa là tìm kiếm các giá trị nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ của đời sống, lột trần các dối trá, phơi bày mọi ung nhọt, xé toạc mọi mặt nạ, là dấn thân vào tiến trình tiến bộ của xã hội. Các tư tưởng đó đã diễn đạt khá đúng và hay về mối quan hệ giữa văn học và đời sống lịch sử trên tầm vĩ mô, nghĩa là toàn bộ các sự kiện, nhân vật, tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn học nghệ thuật đều là sự phản ánh của đời sống xã hội. Cho dù quan niệm phương Đông xưa xem văn học là dùng để nói chí, hoặc chủ nghĩa lãng mạn phương Tây xem văn học “biểu hiện tình cảm, khát vọng chủ quan của con người” thì cái chí ấy, tình cảm ấy cũng đều là phản ánh đời sống xã hội. Tuy vậy, coi phản ánh luận là lí thuyết duy nhất để giải thích văn học nghệ thuật là chưa đủ, vì với tư cách là nhận thức luận, phản ánh luận chưa thể đi vào các quy luật sáng tạo của văn học nghệ thuật cũng như quy luật tiếp nhận của người đọc. Để hiểu nghệ thuật người ta phải nghiên cứu quy luật sáng tạo, tâm lí học sáng tạo, kí hiệu học, tiếp nhận nghệ thuật... nhưng không vì thế mà phủ nhận văn học phản ánh hiện thực, tức là phản ánh sự kiện, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con người trong văn học.

3. Hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa do thực tiễn gợi ra

Quan niệm hiện thực như là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người đã trở nên siêu hình, không phù hợp thực tế. Hiện thực là thực tại trong mối quan tâm của con người. Từ đó, mỗi hình thái ý thức xã hội có một đối tượng hiện thực tương ứng với nó. Hiện thực của văn học không giống với hiện thực của khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và chính trị. Một thời gian rất dài chúng ta hiểu “hiện thực” của văn học là cái thực tế hiểu theo một định hướng hẹp (hiện thực đấu tranh thống nhất nước nhà, hiện thực đấu tranh hai con đường, hiện thực phong trào thi đua... mà thực chất đó là hiện thực đã được chính trị hoá). Hiện thực của văn học không tách rời với chính trị, nhưng không đồng nhất với hiện thực của chính trị. Chẳng hạn, hiện thực chính trị không nhất thiết bao gồm hiện tượng vô cảm của cá nhân đối với số phận của đồng loại, sự rung cảm trước thiên nhiên... nhưng đó là điều không thể bỏ qua đối với hiện thực của văn học. Điều này L. Tolstoi đã nói rất hay trong tác phẩm Luserne. Có thể hiểu, hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa mà con người sống trong đó. Vũ trụ, thiên nhiên, con người, xã hội, văn hoá, đồ vật... chỉ khi có ý nghĩa đối với con người mới là hiện thực. Tất cả những gì mà con người tìm thấy có ý nghĩa đối với cuộc sống và từ đó khám phá những con đường để đi tới cuộc sống có ý nghĩa tốt đẹp hơn, thú vị hơn trong nghệ thuật đều là hiện thực. Thực tiễn cho phép người ta càng ngày càng phát hiện ra nhiều ý nghĩa của thế giới đối với đời sống và do đó mà cả đối với nghệ thuật. Ý nghĩa của sự vật thay đổi theo quá trình thực tiễn. Không có hiện thực bất biến, muôn thuở. Văn học phản ánh hiện thực đó trong tính đa diện, toàn vẹn và tính thời đại.

Thực tiễn là tính chất quan trọng nhất của hiện thực con người. Thực tiễn là hoạt động của con người để vượt qua hữu hạn nhằm hướng tới lí tưởng vô hạn và tự do. Con người là giống vật luôn ý thức sự hữu hạn của chính mình từ trong mọi hoạt động sống như cô đơn, tuổi thọ, khả năng chinh phục thế giới và bản thân, hữu hạn trong sản xuất, trong tình yêu, trong sáng tạo, nhận thức, cảm nhận. Trong hoạt động vượt lên chính mình con người nếm trải mọi tình cảm từ vui sướng, tự hào, cao cả, đến bất lực, bi đát, khôi hài, nhục nhã, cay đắng... Vì vậy hiện thực con người rất phong phú, phức tạp, muôn màu.

4. Hiện thực của văn học - lĩnh vực của cái khả nhiên

Văn học nói chung không phản ánh hiện thực như các sự kiện hiện tồn như báo chí, thông tấn, lịch sử biên niên, tư liệu... Văn học phản ánh hiện thực trong những ý nghĩa do thực tế và các xu thế, khả năng đời sống gợi ra. Vì thế từ xưa Aristote đã nói văn học (thi ca) do mô phỏng cái khả nhiên mà giàu tính triết lí hơn lịch sử. Văn học ngày nay vẫn thế, thiên về phản ánh cái khả nhiên của đời sống, bởi đặc điểm con người là không chỉ quan tâm thực tại mà còn quan tâm hơn tới khả năng, tương lai. Người ta có thể chịu khổ, hi sinh, nếu điều đó có ý nghĩa đối với tương lai của đất nước, con cháu mình hoặc loài người nói chung(3). Trong triết học duy vật biện chứng người ta hiểu hiện thực là một cặp phạm trù đối lập và chuyển hoá cho nhau. Hiện thực là cái tồn tại với tư cách là kết quả thực hiện của một khả năng nào đó, còn khả năng là khuynh hướng phát triển tiềm tại của một hiện thực nào đó. Hiện thực thì không phải khả năng, còn khả năng thì chưa phải là hiện thực. Nhìn bề ngoài thì rõ ràng người ta đã loại bỏ khả năng ra ngoài hiện thực, hạn chế văn học trong việc phản ánh các sự việc, con người hiện tồn. Chúng ta đã làm như thế và về lí thuyết đã từng đối lập văn học hiện thực và văn học lãng mạn. Nếu hiểu đúng, thì về thực chất hiện thực bao hàm cả cái khả năng, và thiếu tính khả năng thì hiện thực chưa phải là hiện thực của văn học. Chính vì là cái khả năng, nghĩa là cái chưa trở thành hiện thực, cho nên nhà văn mới có thể dùng hư cấu sáng tạo để làm cho cái khả năng tiềm tại hiện hình lên mặt giấy cho mọi người quan sát, thể nghiệm, thực hiện chức năng dự báo của văn học. Con người không chỉ quan tâm hiện tại, nó còn quan tâm tương lai gấp trăm nghìn lần. Nó sợ nhất là hiện thực không thay đổi hoặc thay đổi bất lợi cho nó. Nó không lo sợ cái hiện thực vì nó đã có rồi, biết rồi, mà sợ nhất sự bất trắc của tương lai. Hiện thực vốn đã vô cùng phức tạp, song khả năng là lĩnh vực còn rộng lớn và phong phú hơn nhiều. Các khả năng hiện thực và khả năng phi hiện thực, văn học đều quan tâm. Trong hiện thực tồn tại vô vàn khả năng, nhưng do điều kiện cụ thể, hiện thực chỉ là sự thực hiện của một trong các khả năng nào đó. Các khả năng khác tuy đã mất cơ hội được thực hiện, nhưng chúng vẫn có ý nghĩa để suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Như thế hiện thực của văn học rộng lớn gấp nhiều lần so với hiện thực của lịch sử. Cái khả nhiên còn là hiện thực độc nhất vô nhị của văn học, bởi vì nó là những khả năng, cho nên thích hợp cho nghệ sĩ lựa chọn về mặt lí tưởng, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thích hợp với trí tưởng tượng, với hư cấu sáng tạo. Phản ánh cái khả nhiên ngoài chức năng dự báo còn có chức năng giải phóng tư duy con người khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc, bất di dịch.

5. Hiện thực - nguồn kí hiệu tự nhiên vô tận và sức mạnh của chủ nghĩa hiện thực.

Trước đây nói đến hiện thực ta thường chỉ nói đối tượng phản ánh là nguồn nội dung nhận thức của văn học. Nhưng xét từ góc độ kí hiệu học, nếu hiện thực là thế giới ý nghĩa thì toàn bộ các sự vật cụ thể, cảm tính - những yếu tố mang nghĩa xung quanh con người lại đều là những kí hiệu tự nhiên ai cũng thấy, nhớ và hiểu. Các hiện tượng, sự vật, con người - các yếu tố mang nghĩa, do lặp đi lặp lại, cho nên chúng trở thành kí hiệu của các khả năng cuộc sống tiềm ẩn. Nếu nhà văn biết nắm bắt, lựa chọn cái nổi bật, cái lặp lại, cái đặc trưng, sử dụng chúng như những ngôn ngữ kinh nghiệm quen thuộc thì sáng tác của anh ta dễ được công chúng đồng cảm, hiểu, chính vì thế, ngôn ngữ hiện thực, sự miêu tả các hình tượng như thật từ lâu đã được nghệ thuật sử dụng và sáng tạo. Ngôn ngữ tự nhiên này phong phú vô tận, khả năng diễn đạt hiện thực bằng ngôn ngữ hiện thực tự nhiên cũng vô tận. Đó là lí do vì sao ngôn ngữ hiện thực cho đến nay vẫn là ngôn ngữ gần gũi, yêu thích của nhân loại. Ngôn ngữ huyền thoại, hoang đường, gắn với mẫu gốc, biểu tượng cũng có giá trị phổ biến nên cũng được sử dụng lâu dài như một ngôn ngữ văn học hữu hiệu, nhưng do quan niệm về “chủ nghĩa hiện thực độc tôn” một thời mà nhiều khi nó bị bài xích. Nhưng trong văn học dù có sử dụng yếu tố ngôn ngữ biểu đạt tượng trưng như truyện và tiểu thuyết của Kafka, V. Hugo thì ngôn ngữ hiện thực ở trong đó vẫn có vị trí nền tảng.

6. Tác phẩm văn học - sáng tạo kí hiệu sinh nghĩa

Một thời gian dài do quan niệm sơ lược về phản ánh hiện thực, cho rằng phản ánh là tái hiện đời sống như sự phản chiếu gương, như chụp ảnh, giống như thật. Thực ra trong đầu óc con người không có gương hay máy chụp ảnh nào hết, do đó, các thuật ngữ phản ánh, tái hiện, miêu tả... đều chỉ có ý nghĩa ẩn dụ, nghĩa là nói, (hoặc tin rằng) ý thức con người có khả năng nhận thức đúng như sự vật vốn có trong thực tế. Đây cũng là lí do mà Lênin đã dùng các từ “sao chép”, “chụp ảnh” để chỉ khả năng phản ánh của ý thức trong sách Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Đáng tiếc là nhiều người cố tình hiểu các thuật ngữ ấy theo nghĩa đen (không phải nghĩa ẩn dụ) để mà bắt bẻ, phê phán. Tuy vậy cuốn sách của Lênin viết trong điều kiện đi đày ở Siberi, sách vở tham khảo thiếu, ngay cuốn Hệ tư tưởng Đức của Marx và Engels phải đến năm 1934 mới xuất bản, ông không được đọc, cho nên những đoạn viết về ý thức và ngôn ngữ Lênin chưa được tham khảo(4). Ngày nay với các lí thuyết kiến tạo, người ta cho thấy sự phản ánh thực chất là một sự kiến tạo của ý thức con người. Mọi hình ảnh, từ giản đơn đến phức tạp đều do hoạt động kiến tạo tinh vi trong đầu óc con người trên cơ sở thông tin mà giác quan và kinh nghiệm tích luỹ. Điều này trong Tư bản luận Marx cũng nói đến trong từ “biến cải” trong đầu óc người. Hiểu như vậy thì phản ánh là kiến tạo, mà đã kiến tạo tức là có vai trò sáng tạo của thể. Phản ánh và sáng tạo thông nhất với nhau. Các hình thái ý thức chỉ khác nhau trong cách kiến tạo, chứ không khác nhau ở chỗ có hình thái thiên về phản ánh, có hình thái ý thức thiên về sáng tạo như có người hiểu. Khoa học kiến tạo thành khái niệm, còn nghệ thuật kiến tạo thành hình tượng hoặc giai điệu cảm tính. Thực chất kiến tạo tác phẩm nghệ thuật là tạo nên một “văn bản” có khả năng sinh nghĩa, người đọc qua hệ thống các biểu tượng, kí hiệu, kết cấu sẽ lại kiến tạo ý nghĩa của nó. Các nhân vật, chi tiết, hình ảnh thực chất đều là những kí hiệu thuộc các cấp độ khác nhau, được tổ chức vào hệ thống, có mở đầu, có kết thúc, có tương phản, đối chiếu... tức là có cấu trúc, từ đó mà tạo nên nghĩa của tác phẩm. Từ đó ta thấy chủ nghĩa hiện thực là một kiểu kiến tạo kí hiệu mà chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa lãng mạn cũng là những kiến tạo kí hiệu khác, không phân biệt hơn kém về giá trị nhận thức và nghệ thuật. R. Jakobson căn cứ vào cặp đối lập trục dọc và trục ngang, cho rằng ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện thực là kiến tạo văn bản theo nguyên tắc tương cận, đặt các sự vật bên nhau theo sự liên tục, liên tiếp để chúng bộc lộ ý nghĩa như thật, còn ngôn ngữ của chủ nghĩa lãng mạn là thay thế cái này bằng cái khác, tạo thành những ẩn dụ về hiện thực.

7. Nhìn lại lí thuyết chủ nghĩa hiện thực và lí thuyết điển hình

Chủ nghĩa hiện thực về lí luận, chủ trương phản ánh đời sống như nó vốn có trong thực tế, tức là chủ trương dùng chi tiết chân thực lấy từ đời sống. Theo quan niệm của tôi, đó là những kí hiệu tự nhiên được chọn lọc và nghệ thuật hoá. Chủ nghĩa hiện thực là kiểu sáng tác sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để sáng tác. Nhân vật điển hình của văn học lâu nay hiểu là loại nhân vật có sự thống nhất giữa cái chung khái quát cao và cái cá biệt đặc thù, thì “cái chung” là nghĩa, cái được biểu đạt, còn “cái cá biệt” là yếu tố cảm tính đóng vai trò cái biểu đạt, hai mặt này họp lại tạo nên cấu trúc của kí hiệu văn học. Lí luận điển hình ngoài yêu cầu về cái chung như là yêu cầu về tính khái quát cao, có giá trị phổ biến, còn yêu cầu về tính cụ thể, cá thể, độc đáo, đặc trưng, cá tính không lặp lại... đều chung chung, bởi nó không đi ra ngoài cấu trúc chung của kí hiệu(5). Biêlinski nói điển hình là “người lạ quen biết”, là “nhân vật mà tên của nó trở thành danh từ chung” cũng nhằm chỉ đặc điểm của hình tượng nhân vật như một kí hiệu. Một đặc điểm quan trọng nữa của chủ nghĩa hiện thực, theo tôi, là loại kí hiệu mà giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt có mối liên hệ nhân quả. Miêu tả người vô sản có nghĩa là khái quát về vô sản, miêu tả địa chủ tức là khái quát về địa chủ, phong kiến. Engels khi nói rằng chủ nghĩa hiện thực ngoài chi tiết chân thực ra còn phải tái hiện tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Đã nâng tính nhân quả lên một mức cao hơn, ông yêu cầu các chi tiết giống như thật đến mức có thể có giá trị nhận thức về lịch sử. Ông lại đòi hỏi nhận thức về bản chất giai cấp, xã hội của nhân vật như trong thực tế. Ông đã phê bình tác phẩm Cô gái thành thị của Hackness là miêu tả giai cấp công nhân trong đó thiếu tính tích cực như nó vốn có ở khu phố Đông Luân Đôn. Nhưng quan hệ giữa mặt biểu đạt và mặt được biểu đạt trong kí hiệu lại có tính chất võ đoán, do vậy, bản chất giai cấp của nhân vật có lúc làm nên tính điển hình, nhưng nhiều lúc tính điển hình lại nằm ở chỗ khác. Ví dụ như ở hình tượng AQ, tính giai cấp của y không làm nên tính điển hình, còn cái phép thắng lợi tinh thần rất điển hình thì lại không thuộc về tính giai cấp của y. Do vậy tuyệt đối hoá mối liên hệ nhân quả trong điển hình hiện thực sẽ làm nghèo sự đa dạng của khái quát văn học. Hơn nữa, tạo thói quen đọc nhầm văn học. Trong truyện cổ tích ông vua có về giai cấp phong kiến đâu! Trong lí luận văn học hiện thực điển hình là một kí hiệu xây dựng theo ngôn ngữ tự nhiên, còn các kiểu hình tượng khác sử dụng kí hiệu huyền thoại, hoang tưởng. Phân tích về mặt cấu trúc kí hiệu ta thấy điển hình không khác gì hình tượng phi điển hình. Nó chỉ là loại hình tượng đặc thù chứ không có gì tỏ ra là khái quát cao cấp hơn, chân thực hơn các hình tượng nghệ thuật khái quát theo ngôn ngữ nghệ thuật khác. Suy nghĩ lại về khái niệm điển hình không có nghĩa là phủ định điển hình và chủ nghĩa hiện thực, mà chỉ là muốn nói rằng đó là một ngôn ngữ nghệ thuật có tác động to lớn, sâu rộng, được bạn đọc yêu thích, nhưng không hề là phương pháp sáng tác hay ngôn ngữ nghệ thuật có giá trị nhận thức cao hơn ngôn ngữ của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại mà một thời chúng ta đã gán cho nó. Trong thực tế so với các ngôn ngữ khác, ngôn ngữ tự nhiên của chủ nghĩa hiện thực do dễ đọc dễ cảm, vẫn được đông đảo nhà văn và người đọc yêu thích đón nhận. Tuy vậy lạm dụng ngôn ngữ này sẽ kìm hãm sự phát triển năng lực sáng tạo cũng như thưởng thức trong thói quen truyền thống, xa lạ với ngôn ngữ khác và sẽ khó khăn trong giao lưu văn học trong thời đại hội nhập.

8. Sự đa dạng của các phương pháp sáng tạo phản ánh hiện thực

Theo cách hiểu nêu trên, mọi sáng tác nghệ thuật đều phản ánh hiện thực theo những cái khả nhiên mà nghệ sĩ lựa chọn để nêu lên những vấn đề bức xúc của nhân sinh, hướng tới tạo lập một nhãn quan mới về thế giới cho người đọc. Sự khác nhau của sáng tác nằm ở phương pháp sáng tác với tư cách là ngôn ngữ phản ánh khác nhau. Do đó để phản ánh hiện thực sâu sắc, rộng lớn, không phải chỉ độc tôn một chủ nghĩa hiện thực như trước đây mà có thể sử dụng nhiều phương pháp - ngôn ngữ nghệ thuật khác. Dòng ý thức, theo tôi hiểu cũng là một ngôn ngữ hiện thực, bởi nhà văn sử dụng ngôn ngữ chiêm nghiệm bên trong của dòng ý thức của mỗi con người mà do một thời chúng ta chỉ quen với ngôn ngữ khách quan bên ngoài mà bỏ quên nó đi. Ngôn ngữ huyền thoại, hoang tưởng, nghịch dị, xáo trộn không gian thời gian cũng không xa lạ với tư duy kì ảo dân gian và sáng tác của các tác giả lớn như Bồ Tùng Linh, Kafka, Marquez... đều có giá trị trong việc sáng tạo ra những hình tượng văn học có tầm cỡ dân tộc và nhân loại. Như thế để khái quát hiện thực hôm nay chúng ta có thể sử dụng các loại ngôn ngữ nghệ thuật đa dạng nhất.

Hà Nội, 15 - 6 - 2010
T.Đ.S
(259/9-10)



--------------
(1)- M. H. Abrams.
Gương và đèn. Lí thuyết lãng mạn và truyền thống phê bình văn học. Lê Tri Ngưu, Trương Chiếu Tiến, Đồng Khánh Sinh dịch, Vương Ninh hiệu đính. Đại học Bắc Kinh, Bắc kinh, 1992, tr. 6.
(2) Platon cho thế giới tự nhiên mô phỏng ý niệm tuyệt đôi, vĩnh hằng, còn nghệ thuật thì mô phỏng tự nhiên, còn kém hơn tự nhiên, bởi vì nó “chỉ là sự mô phỏng tác phẩm của kẻ khác”, là sự mô phỏng hạng ba. Người đối thoại hỏi Socrat: “Vậy nhà thơ viết bi kịch cũng là người mô phỏng, vậy anh ta cũng giống như mọi kẻ mô phỏng khác, cách biệt ba lần so với vị chúa tể và chân lí những ba lần có phải không? Socrat trả lời: Hình như đúng như thế.
(3) Xin xem: Văn học như là tư duy về cái khả nhiên, Báo Văn nghệ, 2008.
(4) Cuốn này đến năm 1934 mới được xuất bản ở Nga.
(5) Chính vì thế M. Gorki ngoài điển hình Oblomov, điển hình con người thừa trong văn học Nga, từng nói các hình tượng trong truyện cổ tích đều điển hình cho cái thiện, cái ác. Nghĩa là ở đâu cũng tìm thấy điển hình, không riêng gì văn học hiên thực. Còn một thời gian dài người Trung Quốc tranh luận về tính điển hình của nhân vật AQ trong truyện của Lỗ Tấn mà cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Theo tôi đó là vì khái niệm điển hình chưa đạt đến mức chuẩn mực của một khái niệm khoa học, nghĩa là nó chỉ là một khái niệm cảm tính về một hình tượng độc đáo có ý nghĩa phổ quát mà thôi.

 




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.

  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.

  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.