INRASARA
1.
Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.
Nhà phê bình Inrasara - Ảnh: TTVH
Nhưng dường như ở Việt Nam các nghệ sĩ ít thích bàn về điều này, họ thường thích làm tác phẩm hơn là nói về các tác phẩm của mình. Họ cho rằng tự tác phẩm đã nói lên điều đó. Nhưng ở trường chúng tôi lại khác, khi một nghệ sĩ làm nghệ thuật thì điều đầu tiên họ phải được học về các vấn đề lí luận nghệ thuật. Sau đó họ bắt đầu viết các dự án nghệ thuật thành các bài viết, rồi mới đến công việc thực hiện các ý tưởng đó. Công việc này được lặp đi lặp lại trong các năm học. Do đó khi một người nghệ sĩ ra trường có nghĩa là họ đã có một năng lực lí luận nhất định” (Trả lời phỏng vấn báo Thể thao & Văn hóa, số 142, 28/11/2006).
Ít bàn, ông nói, nhưng thực ra là: không bàn, không muốn bàn, không dám bàn vì, không khả năng bàn, thậm chí, dị ứng với lí luận. Người làm văn học nghệ thuật chúng ta luôn dừng lại ở phong trào và nghiệp dư là vậy. Đa phần nhà thơ Việt Nam luôn chịu định mệnh một tác phẩm, một bài thơ, là thế. Khó có thể đi xa… Không ít sáng tác có dấu ấn là sáng tác ăn may, ăn mòn vào năng khiếu “trời cho”. Trời cho tới đâu hay tới đấy, chúng ta thói quen nói như vậy! Một nhà thơ ăn may, thì nó sẽ đến đâu? - Tắc!
Quan điểm sáng tạo cũng góp công sức không nhỏ vào bế tắc của nhà thơ, nhà văn hôm nay.
Hầu hết cây bút trẻ khi được hỏi về nghề viết đều quan niệm [hoặc không quan niệm gì cả] văn chương là trò chơi. Nhất là nhà thơ. Nhà văn ta chưa bao giờ suy tư qui mô về nghệ thuật, suy tư có tính nền tảng và rốt ráo. Các trào lưu văn học nghệ thuật nảy nở và phát triển sôi động ngoài kia cứ là không là gì cả, với ta. Chương trình văn chương các Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn hiểu biết rất sơ sài về chúng. Trong khi nhiều nhà văn [chuyên nghiệp] Tây phương luôn mang ở tự thân khả tính phê bình hay đồng thời là một nhà phê bình, thậm chí, một nhà mĩ học. Còn ở ta thì sao? Dừng lại ở một nhà thơ [kiêm nhà báo], lại là một nhà thơ nghiệp dư, không nhích lên phân tấc.
Thứ văn chương - trò chơi ấy chính là con/cha đẻ của nền văn học bị nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc kêu đích danh là văn học nghiệp dư, không hơn. Trong lúc, tinh thần chuyên nghiệp khác hẳn tinh thần nghiệp dư ở chỗ nó “đề cao yếu tố kĩ thuật” thay vì tùy thuộc vào cảm hứng, “gắn liền với tinh thần nghiên cứu” thay vì tin cậy vào kinh nghiệm, “luôn luôn có tính tự giác cao (…) trong khi đó, buông thả theo thói quen, tinh thần nghiệp dư lại đầy tính chất tự phát” và nhất là, tinh thần chuyên nghiệp mang tính cạnh tranh chứ không làm qua loa đại khái.
Nhà văn Việt Nam ưa nói về tác phẩm của mình. Nói, không phải mang ý thức tự thân, nghĩa là, không phải nói về hệ mĩ học hay tư tưởng từ đó tác phẩm ra đời, mà là những chuyện ngoài lề, hoàn cảnh ra đời cùng những ý nghĩa “thâm hậu” của nó. Nói, như là diễn ngôn tác phẩm của mình. Độc giả không hiểu hay hiểu sai ý tưởng của tôi rồi, ý tôi là thế này, thế này đây. Đó là chưa đủ cô đơn cho sáng tạo khi tác phẩm đã ra đời. Một việc làm thay độc giả như thế vừa nhảm vừa vô ích. Nhà văn chuyên nghiệp hành xử khác: suy tưởng và lên kế hoạch trước khi viết, đọc lại tác phẩm đã viết/xuất bản như một nhà phê bình, và nói về nó như một nhà mĩ học.
Trong ba loại nhà thơ: nhóm thơ cổ truyền, nhóm thơ tiếp hiện và nhóm thơ khai phá, tôi thuộc “loài” nào? Tôi sáng tác theo hệ mĩ học nào? Với tác phẩm này, tôi đã chinh phục được ý hướng của trào lưu này chưa? Tôi sẽ còn mở rộng và vượt lên nó tới đâu? Một nền văn học [hay một nhà văn] tự ý thức buộc phải đặt mình trước những câu hỏi đó. Bởi lẽ khi suy tư về hiện thực, về tư tưởng nghệ thuật, nhà văn không thể không suy tư về kĩ thuật viết.
2.
Việt Nam thiếu truyền thống triết học, một truyền thống dạy thành viên của nó biết và dám đặt câu hỏi. Và nhất là, đẩy câu hỏi tới cùng. Kêu rằng văn chương Việt Nam hôm nay không bám hiện thực cuộc sống có liên quan mật thiết với sự thiếu khuyết ấy, thì chắc chắn sẽ bị phản đối. Nhưng lạ, đó là sự thật. Nỗi than vãn văn học không bám sát hiện thực thời gian qua, chỉ là một than vãn giả. Người ta có thể đặt câu hỏi: Hiện thực là hiện thực nào? Hiện thực như thực của nhà Phật hay hiện thực qua cái nhìn của chủ nghĩa thực dụng Mỹ? Hiện thực của trường phái hiện thực phê phán hay của trào lưu lãng mạn? Của hiện thực xã hội chủ nghĩa hay của trường siêu thực? Của hiện đại hay của hậu hiện đại?...
Sau Freud, ai dám cho rằng các giấc mơ đầy cảnh tượng quái dị không là “hiện thực”? Hoặc họa phẩm với những nét chằng chịt như sợi dây thần kinh của Paul Klee thì kém thực hơn các bức tranh chân dung của họa sĩ thời Phục hưng? Mỗi trường phái triết học, mỗi trào lưu văn học nghệ thuật hiến tặng cho nhân loại cách nhìn mới, khác về hiện thực. Chúng làm phong phú đời sống tinh thần con người. Vấn đề là ta hành xử thế nào với các “phương tiện thiện xảo” đó?
Truyền thống văn học Đông Nam Á trong đó có văn học Việt Nam luôn chịu phận núp bóng. Núp bóng tiếng Sanskrit, Pali hay tiếng Hán. Khi tiếp nhận văn học Tây phương, ta rơi vào nửa vời. Thâu thái trào lưu lãng mạn, nửa đường đứt gánh, thì đã rồi. Sáng tác hiện thực, Balzac đẩy ý tưởng đến cùng để dựng nên Tấn trò đời đồ sộ, ta thì nhập nhằng hiện đại với lãng mạn hậu thời. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, nửa vời - ta thành “hiện thực phải đạo” cho ra lò bao nhiêu thứ phẩm, để chính người đẻ ra chúng cũng phủi tay chối bỏ chúng. Đọc qua các trang văn cuối đời của Nguyễn Khải, để hiểu rằng sau bao trì hoãn và né tránh, rốt cùng đời tài hoa cũng là đời bỏ đi. Ngay cả viết về sex thôi, Việt Nam vẫn không thể sở hữu khuôn mặt mạnh bạo, sâu thẳm và cao vời như Henry Miller.
Bởi ở đó ta nửa vời… Chưa được trang bị tri thức triết học, ta không học cách truy vấn tận cùng sự thể. Ta nhìn hiện thực theo cảm tính, quán tính. Tất cả đều diễn ra trên lối mòn quen thuộc. Triết học được biết tới trong nhà trường hiện tại là triết học dạy nói theo, làm theo để tạo sinh hàng loạt thứ theo-ists, chứ không ý hướng huấn luyện thế hệ tương lai tinh thần độc lập để có thể suy tư độc lập, khám phá hiện thực khác với thói thường. Ta không dám thử đi những bước mới, lạ. Cuối cùng, ta nhìn hiện thực một chiều, phiến diện, hời hợt, méo mó…
Xét ở thượng tầng là vậy. Ngay cả [do đó] ở hạ tầng là chuyện thời sự chính trị xã hội trực tiếp, văn chương Việt Nam vẫn chưa thể đi tới tận cùng của hiện thực xã hội.
Tạm gác một bên “văn hóa sợ” (chữ của Phạm Lưu Vũ), ở đây thử xét qua vài nguyên nhân “cao cả” dẫn đến thái độ né tránh kia.
Trong khu vực văn hóa chữ Hán có truyền thống húy kị. Ở Việt Nam, lịch sử tám thế kỉ húy kị, hàng trăm từ được liệt kê và bổ sung đến các sĩ tử đã phải hao tốn bao nhiêu sinh lực để thuộc lòng. Húy kị từ tên người cho đến những biểu tượng và huyền thoại nhân tạo. Ví có động vào biểu tượng và huyền thoại kia, chữ nghĩa ta cũng dừng lại ở bóng gió, “ẩn dụ”, qua đó sản sinh ra thứ văn chương ám chỉ èo uột. Truyền thống húy kị ăn sâu vào tiềm thức khó gột rửa hình thành nên tâm lí cộng đồng tôn trọng tôn ti trật tự, biết kính trên nhường dưới. Cả ở lĩnh vực văn chương, là nơi chốn rất ít cần đến nó. Cây bút trẻ biết kính trọng nhà văn lão thành, “khiêm tốn” núp bóng các tên tuổi đàn anh đàn chị. Cho nên, ở đó ít cơ may xảy ra cách mạng văn học, cuộc cách mạng khả tính thay đổi lối nghĩ, lối viết, lối đọc.
Văn hóa văn chương ấy yêu chuộng và khuyến khích tính chung chung nên cho dù có động cập đến hiện thực xảy ra trước mắt, nhà văn Việt Nam vẫn cứ mơ hồ, lớt phớt bề mặt, đầy ước lệ và đại khái. Nhà văn chưa được trang bị kĩ năng quan sát hiện thực nhiều chiều, đa góc cạnh, hiện thực ở bề tối, nơi góc khuất, để có thể phân tích và mổ xẻ chúng cùng kiệt. Từ đó dẫu không có ý né tránh, mà chỉ bởi mơ hồ và đại khái, ta cũng thành né tránh. Nỗi buồn chiến tranh được văn giới chính thống công nhận là xuất sắc, mà đã chịu bao thân phận, cả khi nó được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Đơn giản, bởi Bảo Ninh đã dám thử cụ thể và “khác chiều”.
Khác với nền dân chủ Tây phương, truyền thống xã hội Việt Nam về cơ bản thiết định trên tính cố kết gia đình và cộng đồng thay vì tình liên đới giữa các cá nhân độc lập, ưu tiên bảo vệ nề nếp gia phong hay ổn định cộng đồng thay vì đảm bảo quyền lợi cá nhân như là thành tố độc đáo làm nên tập thể nhỏ, lớn đó. Không có gì dở cả. Thế nhưng, văn học là hoạt động sáng tạo độc lập, vận hành trong thiết chế truyền thống kia, đã chịu bao thiệt thòi. Tài năng cá nhân với những suy nghĩ và hành xử cá biệt luôn bị dị nghị. Đòi hỏi nhà văn Việt Nam vượt thoát và “chối bỏ” nó như Kazanzakis, Cao Hành Kiện hay Orhan Pamuk đã làm, là điều cực khó khăn. Để được tồn tại giữa lồng môi trường văn hóa văn chương ấy, nhà văn chấp nhận thỏa hiệp. Họ sẵn sàng để cho họ hàng thân quyến, anh em bằng hữu can thiệp vào công việc sáng tạo. Kín đáo hay lộ liễu thì cũng vậy. Cá tính vừa phải như Nguyễn Huy Thiệp, cũng bị cho ra rìa.
Cá tính, độc đáo với ý hướng “đẩy tới cùng” không phải chưa từng xuất hiện trên lộ trình suy nghĩ và viết của nhà văn Việt Nam. Có, nhưng họ biết dừng lại đúng lúc. Bởi họ biết, nếu phá rào, họ chịu nhiều nguy cơ. Còn lại, họ xả xú páp trong các cuộc lai rai bù khú bạn bè, chứ ở văn bản thì - không.
Cá biệt, nhà văn có “lỡ” phơi bày hiện thực nhạy cảm kia ra, đọc lại, họ không ngần ngại tự kiểm duyệt. Hậu đổi mới là thời hoàng kim của tự kiểm duyệt, - Phạm Thị Hoài nhận định. Sợ cô đơn, sợ cô độc và sợ cô lập, nhà văn tự thỏa hiệp. Tự thỏa hiệp và tự kiểm duyệt theo nghĩa rộng nhất của từ này. Tự kiểm duyệt trước cả bị kiểm duyệt. Run sợ độc hành trên con đường cô đơn của sáng tạo, nhà văn không dám sống tới cùng tư tưởng chọn lựa, không dám viết tới cùng, và nhất là không dám theo đuổi đến cùng dự án lớn lao không giống ai của mình [nếu nhà văn đã nghĩ ra được và hoạch định trước đó]. Không dám sống, viết, theo đuổi tới cùng, thì làm gì có sáng tạo?
Né tránh hiện thực là hệ quả tất yếu của truyền thống văn hóa văn chương Việt Nam cùng mọi biến tướng của nó.
3.
Nhưng liệu nhà văn còn có thể tránh né hiện thực mãi không? Câu trả lời là: không! Làm nhà văn có nghĩa là bị đẩy xuống tàu. Mỗi hành vi công bố tác phẩm là một hành động, và hành động này đặt mình vào sự cuồng nộ của một thời đại không tha thứ (Créer aujourd’hui, c’est créer dangereusement. Toute publication est un acte et cet acte expose aux passions d’un siècle qui ne par- donne rien, - A. Camus, “L’Artiste et son Temps”).
Hiện thực phổ quát, kèm với nó là sự thống khổ của đám đông có mặt khắp nơi, ở sát cạnh nhà bạn, ngay giữa lòng tập thể nhỏ bé tưởng yên ấm của bạn. Thống khổ và bất công lồ lộ được phương tiện thông tin đủ loại đẩy vào tận phòng ăn, giường ngủ bạn, ám ảnh giấc mơ bạn. Đám đông ấy không để yên cho sự im lặng của bạn, khi im lặng đó bị coi như một thái độ. Họ càng không tha thứ cho tiếng nói của bạn, nếu đó chỉ là tiếng nói lưỡng lự, nửa vời.
Quần chúng đòi hỏi trách nhiệm của nhà văn. Em bé đánh giày bị xua đuổi ra khỏi thành phố ư? - Trách nhiệm thuộc về bạn. Sào lúa gia đình nông dân miền Trung bị lũ quét cuốn mất trắng ư? - Bạn phải chịu trách nhiệm. Bài báo phân tích sâu rộng một sự kiện bị bóc khỏi trang mạng ư? - Nhà văn cũng phải chịu trách nhiệm.
Trách nhiệm đòi hỏi nhà văn phải làm những cú cắt đứt, những cuộc đoạn tuyệt cần thiết. Cắt đứt cả truyền thống văn hóa văn chương từng chế ngự tâm thức nhà văn, tâm thức tạo nên thứ tâm lí hãi sợ sự cô đơn, chạy trốn tinh thần độc lập và cả mài mòn cá tính sáng tạo. Chỉ có dũng cảm cắt đứt như thế thôi, nhà văn mới có cơ may tiếp cận và khám phá được hiện thực “như thực”, để qua chữ nghĩa của mình, có thể phơi mở trọn vẹn cái hiện thực vừa được thức nhận sâu thẳm kia.
Và cũng có nghĩa là - sáng tạo.
I.R.S.R
(SH292/06-13)
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.