Văn học Trung Quốc đương đại trong cơ chế thị trường

09:31 06/11/2009
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

GS Trần Đình Sử - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Từ năm 1985 tại Trung Quốc đại lục bùng nổ về văn học thông tục, tức văn học thiên về giải trí, cốt truyện hấp dẫn với nhiều loại đam mê. Hơn 10 bộ tiểu thuyết Kim Dung, Lương Vũ Sinh lần in đầu đã đạt hơn 2 triệu bản, 15 bộ tiểu thuyết Quỳnh Dao cũng không thua kém. Các tạp chí lớn như Thu hoạch, Nhân dân Văn học, Thượng Hải Văn học từ số in hai chục vạn rút xuống còn ba vạn, tạp chí Manh Nha từ 35 vạn đến năm 1995 còn hai vạn, các tạp chí khác đều hướng về tác phẩm văn học thông tục, tác phẩm văn học thuần túy ít được chú ý. Nhà văn Phùng Kí Tài nhận xét: Khái niệm văn học thời kì mới đang mờ nhạt dần. Cảnh tượng một nền văn học đầy sóng to gió lớn, mạnh mẽ, khí phách, tinh túy đều đã biến đi mất tăm, hồn vía không còn, cả đến cảm giác cũng không thấy nữa. "Ông cảm thấy "một thời đại văn học đã kết thúc". Văn học đã thành hàng hóa, Ban biên tập các tạp chí, các nhà xuất bản các lái sách lợi dụng quyền hạn của mình trở thành kẻ thao túng thị trường văn hóa. Họ dùng biện pháp quảng cáo, thay mẫu bìa đóng gói để gây chú ý với người đọc. có người than phiền tác phẩm không thể dựa vào phẩm chất của mình mà nổi tiếng được. Nhà đạo diễn Sử Thục Quân thậm chí nói: "chúng tôi không cần nhà bình luận, mà chỉ cần nhân viên đóng gói, quảng cáo".

Vương Sóc nhà văn được chú ý từ trên 10 năm nay, luôn luôn gây bất đồng trong văn giới. Xin nêu tên một số tập bình luận về nhà văn này: "Vương Sóc, bậc thầy hay tên hạ lưu?". "Tôi là lưu manh, tôi cóc sợ ai", "Đã chơi là phải ngộp thở!". Một nhà bình luận nói: Đặc sắc của Vương Sóc là giọng điệu côn đồ. Ông dùng cách nói hủy diệt mọi quyền uy, phủ nhận mọi chân lí để tạo thế cho mình nhằm diễn đạt tiếng lòng của lớp người ở dưới đáy của xã hội thị dân, ông lí tưởng hóa lớp người dưới đáy để tạo quyền uy cho họ. Báo chí nước ngoài cũng thừa nhận Vương Sóc đánh dấu sự hiện diện của thời đại văn học đô thị.

Năm 1993 Giả Bình Ao cho ra tiểu thuyết Phế đô, được coi là "Kim Bình Mai hiện đại" với số in ban đầu gần nửa triệu bản, một số in lớn nhất trong những năm gần đây. Sách có nhiều chỗ miêu tả tính dục kiểu Kim Bình Mai, lại còn dùng cách bỏ trống như thể bị kiểm duyệt, để câu khách. Một số người than phiền là Giả Bình Ao đã sa đọa thành một nhà văn dung tục. Một số khác khen đây là tác phẩm đỉnh cao miêu tả đời sống của giới trí thức Trung Hoa.

Thơ Cố Thành được đề cao và cũng biến thành hàng hóa. Người tình của Cố Thành viết tự truyện về mối tình với cố thành, trở thành sách bán chạy năm 1995, người tình của người tình của Cố Thành lại viết truyện tình tay ba!

Có một dòng văn học của lưu học sinh Trung Quốc ở nước ngoài ví như "Người đàn bà Trung Quốc ở Manhatơn", "Người Bắc Kinh ở Nữu Ước", "Gia tài của tôi ở Úc", lúc đầu gây được chú ý, về sau tính chân thật bị hoài nghi, người ta chỉ trích nhân cách của tác giả. Một nhà văn học sử nói: Đó là sách kích thích mộng làm giàu nước ngoài cho nên trở thành sách bán chạy. Một tác giả khác lại nói loại sách này có tác dụng khơi dòng. Việc các nhà văn thành lập công ty trở nên hết sức phổ biến. Năm 1992 nhà văn Vương Sóc lập phòng sáng tác phim truyền hình Hải Mã, thu hút nhiều nhà văn nổi tiếng. Cũng năm đó nhà văn Trương Hiền Lượng thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển nghệ thuật trực thuộc hội Liên hiệp văn học nghệ thuật tỉnh Ninh Hạ. Nhà viết kịch Ngụy Minh Luân thành lập công ty kinh tế văn hóa Ngụy Minh Luân, tự làm giám đốc. Năm 1993 một số nhà văn Thượng Hải cùng kí bản qui ước về giá nhuận bút thấp nhất cho kịch bản phim và truyền hình, chống lại qui định nhuận bút của nhà nước. Năm 93 tại Thâm Quyền tổ chức bán đấu giá bản thảo, gần 800 trăm tác giả tham gia. Kịch bản văn học của nhà văn nữ Hoắc Đạt Cha con Tần Thủy Hoàng được bán với giá một triệu nhân dân tệ (khoảng một tỉ rưỡi tiền Việt Nam), lập một kỉ lục về giá bản thảo. Ngôi sao màn bạc Lưu Hiểu Khanh chỉ mới nghĩ ra cái tên một bộ phim sắp làm đã bán được một triệu tám trăm nghìn nhân dân tệ, biểu lộ một phương thức giao dịch mới. Năm nhà văn tự do lấy tên chung là Chu Hồng, kí hợp đồng với nhà xuất bản Thanh niên Trung Quốc, qui định, tác phẩm kí tên Chu Hồng chỉ được in tại nhà xuất bản này, và mỗi năm "Chu Hồng" phải đảm bảo một tác phẩm bán chạy. Một nhóm ba nhà văn Bắc Kinh bỏ một vạn hai nghìn tệ đăng quảng cáo bán bản thảo kịch truyền hình Nhà số 35 phố Hồng Thuận, có hơn 70 đơn vị đặt mua. Cuối cùng một công ty du hí ở Bắc Kinh mua với giá một trăm sáu chục nghìn nhân dân tệ.

Thị trường văn học Trung Quốc khá là sôi động. Văn học thông tục đang chiếm ưu thế. Một số nhà xuất bản mong tạo ra Kim Dung và Quỳnh Dao, Tam Mao, Cổ Long - loại nhà văn bán chạy mà nghiêm túc của mình.

Từ năm 1986 trở đi, song song với quá trình thị trường hóa, văn học ngày càng vận động ra ngoài rìa và lần đầu tiên cho thấy địa vị đính thực của văn học trong đời sống. Sau khi đập tan "bè lũ bốn tên", nhiều nhà văn thường nói tới sứ mệnh, ý thức trách nhiệm trước xã hội, nhưng từ sau năm 1986 nhiệt tình chính trị phai nhạt dần. Trong xã hội kinh tế người ta chủ yếu quan tâm tới lợi ích thực tế, những người ước mơ làm việc khai sáng, làm phát ngôn nhân cho nhân dân tự thấy mất dần người đọc. Nhà văn không thích bàn chính trị, có người tự thấy văn học chẳng qua là một ngón nghề giúp tiêu khiển khi trà dư tửu hậu. Có nhà văn nói: "Chào biệt chủ nghĩa lý tưởng". "Cái tôi đàn chết dần". Nhiều nhà văn mất đi hứng thú đối với thực tế. Các nhà văn Mạc Ngôn, Tô Đồng, Diệp Triệu Ngôn sáng tác "tiểu thuyết lịch sử mới", vứt bỏ mọi phán đoán giá trị có tính chất chính trị. Trong tác phẩm Vú to mông rộng của nhà văn Mạc Ngôn, được giải thưởng, lính quốc dân đảng hay lính đảng cộng sản đều như nhau. Ngôn từ chính trị từng bao phủ văn học một thời bỗng nhiên lặn mất. Cái đối diện với văn học bây giờ đã từ quyền uy chính trị chuyển sang qui luật thị trường. Trước đây nhà văn có đầy ý thức ưu việt của người tiên tri, tiên giác của kẻ nắm được chân lí trong tay, thậm chí khi bị bức hại về chính trị họ vẫn còn có được cảm giác bi tráng, nay trong dòng chảy thị trường họ tự thấy mình không đáng một xu. Kết cục đáng buồn của họ không phải do li kinh phản đạo mà bị xử lí về mặt chính trị, mà do họ "lí tưởng" quá, "đạo đức" quá mà bị thị trường bỏ rơi. Các Đông Ki-hốt-tê hiện đại từng đạo mạo hiển hách một thời này đang chạy trốn cái cao cả và tự biến thành kẻ ốc sạo bình dân.

Rời xa trung tâm của ý thức hệ các nhà văn quay về với dân gian. Có người sáng tác "hiện thực mới" - biểu hiện ý thức thị dân, coi sinh tồn là vấn đề hàng đầu của nhân sinh; có người sáng tác tiểu thuyết lịch sử mới, khai thác các dã sử truyền kì bị bỏ quên, đánh giá lịch sử theo quan niệm dân gian. Có người xây dựng hình ảnh những ông quan tốt bụng, gửi gắm kì vọng của dân chúng.

Một hướng khác là quay về với con người cá nhân, họ thể hiện cảm xúc của mình như một người bình thường, để viết theo lối "thể nghiệm mới", thẩm định lại cuộc sống hằng ngày. Có người đi sâu vào tình dục, vào trò chơi, vào "cái tôi". Có người truyền kỳ hóa mẫu người thị dân mới, thần thoại hóa cá nhân, phát huy chủ nghĩa nữ tính.

Trong kinh tế thị trường phê bình văn học dần dần bị tắt tiếng. Bởi phê bình tự nó không tạo được hệ thống giá trị và một trung tâm diễn ngôn. Tình trạng vận dụng lí luận tạp nham khiến cho phê bình ngày càng tản mạn, thiếu trung tâm. Việc vay mượn lí luận nước ngoài, lạm dụng thuật ngữ khái niệm, vận dụng vội vàng làm người đọc thiếu tin tưởng. Các nhà phê bình lặng lẽ rút khỏi lãnh địa văn học, dần dần thay thế bình văn học bằng phê bình văn hóa.

Đối với xu thế văn học đang chuyển ra vùng biên của đời sống xã hội có người cho rằng thế là phải, vì văn học xưa nay có trực tiếp quan hệ đến quốc kế dân sinh đâu. Nó được đưa vào vị trí trung tâm của ý thức hệ là chuyện không bình thường. Nay xã hội đang lấy kinh tế làm trung tâm rồi thì văn học không thể trở về trung tâm nữa. Cam phận bên lề là cách lựa chọn duy nhất thỏa đáng. Mà đây cũng là khởi đầu vận mệnh mới của văn học trong thế kỉ 21 sắp tới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người đang nhiệt tình kêu gọi văn học phải xác lập lại tiếng nói trung tâm của mình, củng cố hệ giá trị và đánh giá của mình để từ vị trí của mình mà có tiếng nói bổ ích có trọng lượng đối với đời sống xã hội.

T.Đ.S
(128/10-99)





 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.