Văn học trong thời đại toàn cầu hóa - trường hợp Chăm

15:47 09/01/2012

INRASARA

1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 [endif][if gte mso 9] [endif][if gte mso 10] [endif]

Ta không thể chối bỏ hay quay lưng lại nó, mà chỉ có thể bàn cách tiếp nhận sao cho hiệu quả nhất trong môi trường văn hóa cụ thể.

Thử giải cấu trúc trường hợp câu lạc bộ bóng đá Arsenal. Câu lạc bộ có trụ sở tại London (Anh), nhưng chủ sở hữu nó có cả công dân Anh lẫn Mỹ, huấn luyện viên lại là người Pháp, tập hợp cầu thủ từ rất nhiều quốc gia khác nhau, khác đến mức có lắm bận đội hình ra sân không có một cầu thủ nào mang quốc tịch Anh. Mấy năm qua, các trận đấu tại sân vận động Emirates chạy dài hàng chữ quảng cáo Hoàng Anh Gia Lai Việt Nam. Chưa hết, hàng triệu fan Arsenal rải khắp thế giới. Riêng Việt Nam, người hâm mộ lập nên website riêng Arsenal.com hoạt động xôm tụ. Đến một làng quê miền núi hẻo lánh, ta không khó bắt gặp cậu thiếu niên quần xà lỏn vận áo số 14 hò hét đám bạn trong trận cầu trên đám rẫy lồi lõm không kém gì Henry. Trận derby MU - Arsenal, rủi ro Các Pháo thủ bị Những con Quỷ đỏ cho phơi áo, cha con tôi buồn héo mặt như thể chính mình vừa thua cuộc.

Toàn cầu hóa là vậy.

Thử bước vào gia đình nhỏ người Chăm hiện đại.

Cuộc sống nông thôn khó khăn, vợ chồng dắt díu hai đứa con vào Phan Thiết, dăm năm qua. Anh chồng làm tổ trưởng Bảo hiểm Prudential, suốt ngày hết gạ gẫm khách hàng xa lạ đến truyền đạt cho chục nhân viên dưới quyền phương sách thuyết phục thân chủ bỏ tiền ra càng nhiều càng tốt mua bảo hiểm từ một hãng bảo hiểm tại đất nước Anh xa lắc lơ mình chưa hề đặt chân tới. Chị vợ là thợ may áo cao cấp xuất khẩu sang Úc, loại áo mà chồng mình không bao giờ được mặc. Tối mịt, họ cùng đi xe máy Trung quốc về nhà trọ. Hấp khoai làng bằng lò viba nhãn hiệu Mỹ, chị vợ vừa làm bếp vừa liếc sang tivi LCD sản xuất tại Hàn Quốc đang chiếu phim bộ Đài Loan trong khi anh chồng mãi hào hứng với trận bóng đá đang diễn ra tại Nam Phi được truyền trực tiếp qua kênh Thái Lan trên cái tivi nghĩa địa Nhật. Phòng bên, hai đứa con đắm mình vào trò chơi điện tử của hãng Capcom về bậc thầy Muay Thái là Sagat và đang mãi hò hét bằng tiếng Chăm độn đến nửa phần tiếng Việt. Katê năm ngoái, người bác dẫn con từ Canada về, đám nhóc tán gẫu bằng thứ tiếng Anh khiến bố mẹ hết hiểu.

Mới ba thập niên trước thôi, ông bà nội chúng suốt ngày bám đuôi trâu với quẩn quanh mảnh ruộng bạc mầu. Khi có việc hay rảnh rỗi thì sang nhà bà con láng giềng, gặp ngày lễ lạc mới được qua làng bên. Hạn hán hay lũ lụt ảnh hưởng đời sống trực tiếp mắt thấy tai nghe - rất thực. Có thiếu thốn thì qua nhà bác phú nông vay tạm đợi mùa. Hôm nay thì khác. Biến động chính trị tại các nước Bắc Phi, nạn cháy rừng ở Úc châu hay Tòa Tháp Đôi tận đất nước chú Sam sụp đổ hoặc một thay đổi quyền lực vừa xảy ra tại phiên họp Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cũng ảnh hưởng đến bữa cơm họ, tác động mạnh đến giá trị đồng tiền họ chắt chiu được để gửi tiết kiệm.

Thế giới đã trở thành một làng, làng toàn cầu (global village). Nhân loại bị nhồi nhét trong cái làng chật chội đó, chịu ảnh hưởng từ nó và bởi nó, không thoát ra được.

Về mặt kinh tế - chính trị - xã hội, toàn cầu hóa nguy cơ nhuộm nhân loại thành một màu đồng nhất. Riêng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa làm cho nhân loại trên khắp thế giới trở nên giống nhau hay khác nhau hơn? - là câu hỏi thường được đặt ra trong các cuộc trao đổi về toàn cầu hóa văn hóa (Manfred B. Steger, 2009).

Về sự thể này, hiện nay tồn tại ba quan điểm: - Toàn cầu hóa dẫn đến sự nhất thể hóa văn hóa, văn hóa trên toàn thế giới sẽ mang chung một bộ mặt; - Ở phía đối trọng, toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng phản ứng ngược: các nền văn hóa nhỏ, ngoại biên sẽ tự vệ bằng nhiều biện pháp để bảo tồn bản sắc đặc thù, họ tiếp nhận toàn cầu hóa theo cách rất riêng; - Cuối cùng là xu hướng chiết trung khuyến khích các hình thức lai tạo văn hóa, trên nền tảng bản sắc cũ, họ thâu thái những cái Khác (Others) để tạo nên nền văn hóa mới, đa tạp và độc đáo.

Còn văn học, toàn cầu hóa có là một thứ hợp lưu văn học để dẫn đến sự giống nhau của tất cả các nền văn học không? - Chắc chắn là không rồi.

Tinh thần dân tộc và tinh thần địa phương của loài người, sức đề kháng của các nền văn hóa cùng lợi ích cục bộ, vân vân… sẽ bảo lưu sự khác biệt, hoặc tạo nên những sự khác biệt mới. Xu hướng tách và nhập xảy ra đồng thời ở các dòng lưu chuyển của tư tưởng và văn hóa thế giới. Văn học không là ngoại lệ. Còn hơn thế, văn học sở hữu vũ khí riêng là ngôn ngữ mà không bộ môn nào có.

Giữa dòng lưu chuyển của thời đại toàn cầu hóa ấy, văn chương Việt Nam nhập lưu thế nào? Cụ thể hơn, các cây bút Chăm phản ứng và viết thế nào?

2.

Phản ứng trước hết và dễ nhận ra nhất là thái độ rút vào vỏ sò như là cách tự vệ của kẻ sắp bị lấy mất báu vật: nền văn học truyền thống cần phải được bảo tồn. Nhưng đâu là cái cần bảo tồn? Mười bảy thế kỉ dựng xây và vun bồi, nền văn học xa xưa chỉ còn là những mảnh vụn vương vãi khắp nơi. Lượm nhặt và lắp ghép lại những mảnh rời kia để tạo nên khuôn mặt khả dĩ nhất của nền văn học dân tộc, bộ Văn học Chăm, khái luận - văn tuyển ba tập (Inrasara, 1994-1996) là thành quả bước đầu của nỗ lực dài hơi đó. Ngoài ra Tủ sách Văn học Chăm (Inrasara chủ biên) mười tập gồm 5.000 trang đang được triển khai cũng là dự án cho một tái khẳng định bản sắc.

Không dừng lại, để khẳng định bản sắc cũ trong lòng văn học Việt Nam đồng thời tạo lập một bản sắc mới, thế hệ toàn cầu hóa cần có đất riêng để chơi. Đặc san Tagalau, sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu văn hóa Chăm có mặt, đảm nhận được phần việc đó. Qua 12 kì tồn tại, đặc san trình làng nhiều cây bút triển vọng, trong đó có tác giả đã in tác phẩm riêng: Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Trà Vigia, Chế Mỹ Lan, Trà Ma Hani, Phú Đạm,…

Cuối cùng sức đề kháng còn thể hiện rõ ở không ít cây bút Chăm cương quyết sáng tác bằng tiếng dân tộc.

Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó
dù chỉ còn dăm ba người
                        dù chỉ còn một người
                                    hay ngay cả chẳng còn ai.

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Dù chịu mấy thiệt thòi, hạn chế về mọi mặt, họ vẫn bám trụ. Những Cahya Mưlơng, Jaya Hamu Tanran, Jaya Bal Riya, Đặng Tịnh, Minh Trí, Raya Raya, Inrasara, Trà Vigia, Phú Đạm, Jaya Thuksiam, Caramai,… thế hệ tiếp thế hệ, có thể tài năng với sự trường sức không đều, và cho dù các bài thơ chỉ có mặt lác đác, họ vẫn miệt mài với tình yêu văn chương và tình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ.

Rồi, website Inrasara.com ra đời năm 2007, ngoài việc in nguyên tập thơ Em, hoa xương rồng & nắng của Trà Ma Hani được Inrasara chuyển ngữ sang tiếng Chăm, cùng lúc hơn năm mươi bài thơ của Inrasara được đăng tải. Và khi kĩ thuật in ấn thuận tiện với điều kiện kinh tế cho phép, các cây bút Chăm ý thức in thành tập các sáng tác lẻ của mình. Phú Đạm gạn đục khơi trong các bài thơ cũ để làm ra Anưk kamei bhum pađiak (Người con gái xứ nắng). Tập thơ in photocopy 50 bản, phát hành vào đầu tháng 5-2009, là một nỗ lực khác nữa.

3.

Nhưng các cây bút Chăm cứ mãi tự đóng khung trong thế giới tiếng mẹ đẻ không? Chắc chắn là không rồi. Là dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam đa sắc tộc, nhà văn người Chăm không thể không sử dụng tiếng Việt. Có mấy nguyên do: Để tác phẩm của mình đến với độc giả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam được nhiều và nhanh, họ phải dùng đến tiếng Việt, là tiếng phổ thông trong in ấn và phát hành. Với cộng đồng Chăm, tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chủ đạo được sử dụng ở mọi lĩnh vực; và có thể nói, đại đa số người Chăm giỏi và sành tiếng Việt gấp nhiều lần tiếng mẹ đẻ. Sau cùng, với chính bản thân người viết - ngoài vài trường hợp cá biệt -, đa phần vẫn suy nghĩ bằng tiếng Việt, việc diễn đạt ý tưởng qua tiếng Việt với họ chắc chắn sẽ thoải mái hơn.

Như vậy, để nhập lưu văn chương Việt Nam đương đại, các cây bút Chăm không thể chối từ phương tiện diễn đạt kia. Tháp nắng của Inrasara xuất bản năm 1996 được xem là một cách khởi động, nhưng chỉ khi đặc san Tagalau ra đời năm 2000, các cây bút người Chăm viết tiếng Việt mới nhập cuộc thực sự. Hàng loạt tên tuổi xuất hiện và tìm được giọng điệu riêng. Trên nền bản sắc cũ, họ biết tiếp nhận các trào lưu văn chương mới, các thủ pháp mới, “lai ghép” để tạo nên bản sắc mới.

Họ biết làm mới từ thể thơ cho tới ngôn ngữ và thi ảnh, từ thủ pháp cho đến cảm thức hay cách xuất hiện. Đó là cách thức phi tâm hóa trong nhận thức và thể hiện đẫm chất hậu hiện đại (Inrasara, 2009).

Thế nhưng, khác với hậu hiện đại “bắt đầu từ giới trí thức và thường cũng chỉ dừng lại ở giới trí thức, thậm chí giới trí thức khá cao cấp. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa, ngược lại, dấy lên ngay từ đời sống hàng ngày của hầu như tất cả mọi người, từ các siêu cường đến các quốc gia đang phát triển, từ thành thị đến nông thôn, từ những người có học đến giới bình dân” (Nguyễn Hưng Quốc, 2008).

4.

Câu chuyện 40 năm trước, ngồi lớp Chín, tôi từng tập tọng làm thơ bằng tiếng Pháp, vì nghĩ rằng đó là thứ ngôn ngữ qua đó các sáng tác của tôi dễ đến với thế giới rộng lớn. Sau non một năm tôi đã dừng lại, vì… bất lực. Sự thể không nói lên điều gì khác ngoài tinh thần dân tộc của tuổi trẻ tôi.

Hôm nay đã khác, đứa con tôi đang thoải mái diễn đạt ý tưởng qua thơ, tản văn bằng tiếng Anh. Và chắc chắn, trong môi trường toàn cầu hóa, bạn trẻ ấy sẽ không dừng lại. Đó là phương cách ngắn nhất nhập cuộc thế giới hiện tại. Tại sao? Người Chăm hiện nay cư trú nhiều địa phương khác nhau trên đất nước Việt Nam, nói và viết đang dần tách rời nhau; cộng đồng Chăm hải ngoại sử dụng ngôn ngữ bản địa khác nhau. Do đó, tiếng Anh sẽ là phương tiện khả dĩ nhất kết nối tất cả họ lại, nếu muốn.

Còn với văn chương? Có thể nói, nếu hậu hiện đại trang bị cho nhà văn Chăm cảm thức mới, thì toàn cầu hóa cung ứng cho họ mọi phương tiện để hành động. Họ có thể “nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại” (Hoàng Ngọc-Tuấn, 2002). Jalau Anưk thôi thúc thế hệ trẻ đi tới, cũng là cách tự hối thúc:

Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoãi đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích
Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với
Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe chuyện ngày xưa bà kể

Đi đi em! Đi đi! – Mang hình em vào phố
tỏa hơi em vào phố
chìa cả sần sùi bàn tay em vào phố
và lớn lên cùng phố
phố sẽ trải ngực mình/ mở đôi vai mình
để lúc mệt nhoài em gối ngủ giấc trinh nguyên
phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời - rộng lắm!
mà ở đâu dưới vòm trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh
           
(Jalau Anưk, “Dưới vòm trời là những mái nhà”)


Phố không nuốt chửng em đâu”, thì tại sao phải ngại ngần? Jalau Anưk hỏi thế. Mưtai di kraung, mưtai di thatik/ Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei - Chết nơi biển cả sông sâu/ Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng - Xưa, ông bà Chăm đã từng nói thế. Thế hệ trẻ Chăm biết thế, và sẽ hành động theo tinh thần cái biết ấy. Toàn cầu hóa, thay vì xóa mất bản sắc Chăm, chính nó lại là một cơ hội tốt lành. Tại sao không?

Mở - thế hệ trẻ Chăm đã hết mình nhập cuộc chịu chơi. Nhưng họ sẽ về đâu, nếu không làm cuộc trở về? Bà con anh chị em họ sẽ ra sao, nếu họ một đi không trở lại?

Đường trở về
Gian nan trăm lần bước tha phương
Không chỉ đường trở về chúng ta còn làm quen với khuôn mặt quê hương
Không những bước tha phương chúng ta phải yêu thương con đường bóng tối

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Họ đã trở về. Như bạn thơ nữ từ Mỹ trở về với Aw dhai Cam áo dài Chăm quê hương. Làm thơ bằng tiếng Anh, bạn trẻ kia vẫn tổ chức dạy tiếng và chữ Chăm cho người đồng tộc ở địa phương. Hắn đi vào tận các làng quê hẻo lánh sinh hoạt cộng đồng, lập website Gilaipraung.com cho thanh niên khắp nơi Chăm gặp gỡ trao đổi,… Đó chính là nghĩ và làm theo phương châm hậu hiện đại: Think globally, act locally.

“Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương”, thế hệ nhập cuộc kia đã “gian nan” trở về. Nhà Trưng bày Văn hóa Chăm Inrahani đã được dựng lên tại quê nhà, dựng lên - không phải ở các trung tâm văn hóa lớn hay khu du lịch - mà giữa cộng đồng phục vụ cho cộng đồng. Với những lỉnh kỉnh xe trâu cổ, sách cổ Chăm, tác phẩm nghiên cứu về Chăm và của các tác giả Chăm, nhạc cụ đủ loại và nông ngư cụ xưa nay đã biệt tích, dệt thổ cẩm và nghề gốm, tủ sách đủ loại dành cho cộng đồng để anh nông dân có thể tạt qua tìm hiểu về nghề trong những giờ nông nhàn hay cô sinh viên về ghé vào nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp…

Tìm thấy bản sắc Chăm - nhập cuộc toàn cầu hóa - trở về với dân tộc mà vẫn mang nhân loại trong mình. Đó là biện chứng tinh thần thời hậu hiện đại. Chỉ như thế, chúng ta mới tồn tại như là tồn tại. Sẵn sàng mở cửa để hội nhập thế giới mà không sợ tự đánh mất mình.


Sài Gòn, 27-9-2011
I.R.S.R
(SH275/1-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.