Văn học trong thời đại toàn cầu hóa - trường hợp Chăm

15:47 09/01/2012

INRASARA

1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 [endif][if gte mso 9] [endif][if gte mso 10] [endif]

Ta không thể chối bỏ hay quay lưng lại nó, mà chỉ có thể bàn cách tiếp nhận sao cho hiệu quả nhất trong môi trường văn hóa cụ thể.

Thử giải cấu trúc trường hợp câu lạc bộ bóng đá Arsenal. Câu lạc bộ có trụ sở tại London (Anh), nhưng chủ sở hữu nó có cả công dân Anh lẫn Mỹ, huấn luyện viên lại là người Pháp, tập hợp cầu thủ từ rất nhiều quốc gia khác nhau, khác đến mức có lắm bận đội hình ra sân không có một cầu thủ nào mang quốc tịch Anh. Mấy năm qua, các trận đấu tại sân vận động Emirates chạy dài hàng chữ quảng cáo Hoàng Anh Gia Lai Việt Nam. Chưa hết, hàng triệu fan Arsenal rải khắp thế giới. Riêng Việt Nam, người hâm mộ lập nên website riêng Arsenal.com hoạt động xôm tụ. Đến một làng quê miền núi hẻo lánh, ta không khó bắt gặp cậu thiếu niên quần xà lỏn vận áo số 14 hò hét đám bạn trong trận cầu trên đám rẫy lồi lõm không kém gì Henry. Trận derby MU - Arsenal, rủi ro Các Pháo thủ bị Những con Quỷ đỏ cho phơi áo, cha con tôi buồn héo mặt như thể chính mình vừa thua cuộc.

Toàn cầu hóa là vậy.

Thử bước vào gia đình nhỏ người Chăm hiện đại.

Cuộc sống nông thôn khó khăn, vợ chồng dắt díu hai đứa con vào Phan Thiết, dăm năm qua. Anh chồng làm tổ trưởng Bảo hiểm Prudential, suốt ngày hết gạ gẫm khách hàng xa lạ đến truyền đạt cho chục nhân viên dưới quyền phương sách thuyết phục thân chủ bỏ tiền ra càng nhiều càng tốt mua bảo hiểm từ một hãng bảo hiểm tại đất nước Anh xa lắc lơ mình chưa hề đặt chân tới. Chị vợ là thợ may áo cao cấp xuất khẩu sang Úc, loại áo mà chồng mình không bao giờ được mặc. Tối mịt, họ cùng đi xe máy Trung quốc về nhà trọ. Hấp khoai làng bằng lò viba nhãn hiệu Mỹ, chị vợ vừa làm bếp vừa liếc sang tivi LCD sản xuất tại Hàn Quốc đang chiếu phim bộ Đài Loan trong khi anh chồng mãi hào hứng với trận bóng đá đang diễn ra tại Nam Phi được truyền trực tiếp qua kênh Thái Lan trên cái tivi nghĩa địa Nhật. Phòng bên, hai đứa con đắm mình vào trò chơi điện tử của hãng Capcom về bậc thầy Muay Thái là Sagat và đang mãi hò hét bằng tiếng Chăm độn đến nửa phần tiếng Việt. Katê năm ngoái, người bác dẫn con từ Canada về, đám nhóc tán gẫu bằng thứ tiếng Anh khiến bố mẹ hết hiểu.

Mới ba thập niên trước thôi, ông bà nội chúng suốt ngày bám đuôi trâu với quẩn quanh mảnh ruộng bạc mầu. Khi có việc hay rảnh rỗi thì sang nhà bà con láng giềng, gặp ngày lễ lạc mới được qua làng bên. Hạn hán hay lũ lụt ảnh hưởng đời sống trực tiếp mắt thấy tai nghe - rất thực. Có thiếu thốn thì qua nhà bác phú nông vay tạm đợi mùa. Hôm nay thì khác. Biến động chính trị tại các nước Bắc Phi, nạn cháy rừng ở Úc châu hay Tòa Tháp Đôi tận đất nước chú Sam sụp đổ hoặc một thay đổi quyền lực vừa xảy ra tại phiên họp Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cũng ảnh hưởng đến bữa cơm họ, tác động mạnh đến giá trị đồng tiền họ chắt chiu được để gửi tiết kiệm.

Thế giới đã trở thành một làng, làng toàn cầu (global village). Nhân loại bị nhồi nhét trong cái làng chật chội đó, chịu ảnh hưởng từ nó và bởi nó, không thoát ra được.

Về mặt kinh tế - chính trị - xã hội, toàn cầu hóa nguy cơ nhuộm nhân loại thành một màu đồng nhất. Riêng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa làm cho nhân loại trên khắp thế giới trở nên giống nhau hay khác nhau hơn? - là câu hỏi thường được đặt ra trong các cuộc trao đổi về toàn cầu hóa văn hóa (Manfred B. Steger, 2009).

Về sự thể này, hiện nay tồn tại ba quan điểm: - Toàn cầu hóa dẫn đến sự nhất thể hóa văn hóa, văn hóa trên toàn thế giới sẽ mang chung một bộ mặt; - Ở phía đối trọng, toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng phản ứng ngược: các nền văn hóa nhỏ, ngoại biên sẽ tự vệ bằng nhiều biện pháp để bảo tồn bản sắc đặc thù, họ tiếp nhận toàn cầu hóa theo cách rất riêng; - Cuối cùng là xu hướng chiết trung khuyến khích các hình thức lai tạo văn hóa, trên nền tảng bản sắc cũ, họ thâu thái những cái Khác (Others) để tạo nên nền văn hóa mới, đa tạp và độc đáo.

Còn văn học, toàn cầu hóa có là một thứ hợp lưu văn học để dẫn đến sự giống nhau của tất cả các nền văn học không? - Chắc chắn là không rồi.

Tinh thần dân tộc và tinh thần địa phương của loài người, sức đề kháng của các nền văn hóa cùng lợi ích cục bộ, vân vân… sẽ bảo lưu sự khác biệt, hoặc tạo nên những sự khác biệt mới. Xu hướng tách và nhập xảy ra đồng thời ở các dòng lưu chuyển của tư tưởng và văn hóa thế giới. Văn học không là ngoại lệ. Còn hơn thế, văn học sở hữu vũ khí riêng là ngôn ngữ mà không bộ môn nào có.

Giữa dòng lưu chuyển của thời đại toàn cầu hóa ấy, văn chương Việt Nam nhập lưu thế nào? Cụ thể hơn, các cây bút Chăm phản ứng và viết thế nào?

2.

Phản ứng trước hết và dễ nhận ra nhất là thái độ rút vào vỏ sò như là cách tự vệ của kẻ sắp bị lấy mất báu vật: nền văn học truyền thống cần phải được bảo tồn. Nhưng đâu là cái cần bảo tồn? Mười bảy thế kỉ dựng xây và vun bồi, nền văn học xa xưa chỉ còn là những mảnh vụn vương vãi khắp nơi. Lượm nhặt và lắp ghép lại những mảnh rời kia để tạo nên khuôn mặt khả dĩ nhất của nền văn học dân tộc, bộ Văn học Chăm, khái luận - văn tuyển ba tập (Inrasara, 1994-1996) là thành quả bước đầu của nỗ lực dài hơi đó. Ngoài ra Tủ sách Văn học Chăm (Inrasara chủ biên) mười tập gồm 5.000 trang đang được triển khai cũng là dự án cho một tái khẳng định bản sắc.

Không dừng lại, để khẳng định bản sắc cũ trong lòng văn học Việt Nam đồng thời tạo lập một bản sắc mới, thế hệ toàn cầu hóa cần có đất riêng để chơi. Đặc san Tagalau, sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu văn hóa Chăm có mặt, đảm nhận được phần việc đó. Qua 12 kì tồn tại, đặc san trình làng nhiều cây bút triển vọng, trong đó có tác giả đã in tác phẩm riêng: Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Trà Vigia, Chế Mỹ Lan, Trà Ma Hani, Phú Đạm,…

Cuối cùng sức đề kháng còn thể hiện rõ ở không ít cây bút Chăm cương quyết sáng tác bằng tiếng dân tộc.

Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó
dù chỉ còn dăm ba người
                        dù chỉ còn một người
                                    hay ngay cả chẳng còn ai.

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Dù chịu mấy thiệt thòi, hạn chế về mọi mặt, họ vẫn bám trụ. Những Cahya Mưlơng, Jaya Hamu Tanran, Jaya Bal Riya, Đặng Tịnh, Minh Trí, Raya Raya, Inrasara, Trà Vigia, Phú Đạm, Jaya Thuksiam, Caramai,… thế hệ tiếp thế hệ, có thể tài năng với sự trường sức không đều, và cho dù các bài thơ chỉ có mặt lác đác, họ vẫn miệt mài với tình yêu văn chương và tình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ.

Rồi, website Inrasara.com ra đời năm 2007, ngoài việc in nguyên tập thơ Em, hoa xương rồng & nắng của Trà Ma Hani được Inrasara chuyển ngữ sang tiếng Chăm, cùng lúc hơn năm mươi bài thơ của Inrasara được đăng tải. Và khi kĩ thuật in ấn thuận tiện với điều kiện kinh tế cho phép, các cây bút Chăm ý thức in thành tập các sáng tác lẻ của mình. Phú Đạm gạn đục khơi trong các bài thơ cũ để làm ra Anưk kamei bhum pađiak (Người con gái xứ nắng). Tập thơ in photocopy 50 bản, phát hành vào đầu tháng 5-2009, là một nỗ lực khác nữa.

3.

Nhưng các cây bút Chăm cứ mãi tự đóng khung trong thế giới tiếng mẹ đẻ không? Chắc chắn là không rồi. Là dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam đa sắc tộc, nhà văn người Chăm không thể không sử dụng tiếng Việt. Có mấy nguyên do: Để tác phẩm của mình đến với độc giả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam được nhiều và nhanh, họ phải dùng đến tiếng Việt, là tiếng phổ thông trong in ấn và phát hành. Với cộng đồng Chăm, tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chủ đạo được sử dụng ở mọi lĩnh vực; và có thể nói, đại đa số người Chăm giỏi và sành tiếng Việt gấp nhiều lần tiếng mẹ đẻ. Sau cùng, với chính bản thân người viết - ngoài vài trường hợp cá biệt -, đa phần vẫn suy nghĩ bằng tiếng Việt, việc diễn đạt ý tưởng qua tiếng Việt với họ chắc chắn sẽ thoải mái hơn.

Như vậy, để nhập lưu văn chương Việt Nam đương đại, các cây bút Chăm không thể chối từ phương tiện diễn đạt kia. Tháp nắng của Inrasara xuất bản năm 1996 được xem là một cách khởi động, nhưng chỉ khi đặc san Tagalau ra đời năm 2000, các cây bút người Chăm viết tiếng Việt mới nhập cuộc thực sự. Hàng loạt tên tuổi xuất hiện và tìm được giọng điệu riêng. Trên nền bản sắc cũ, họ biết tiếp nhận các trào lưu văn chương mới, các thủ pháp mới, “lai ghép” để tạo nên bản sắc mới.

Họ biết làm mới từ thể thơ cho tới ngôn ngữ và thi ảnh, từ thủ pháp cho đến cảm thức hay cách xuất hiện. Đó là cách thức phi tâm hóa trong nhận thức và thể hiện đẫm chất hậu hiện đại (Inrasara, 2009).

Thế nhưng, khác với hậu hiện đại “bắt đầu từ giới trí thức và thường cũng chỉ dừng lại ở giới trí thức, thậm chí giới trí thức khá cao cấp. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa, ngược lại, dấy lên ngay từ đời sống hàng ngày của hầu như tất cả mọi người, từ các siêu cường đến các quốc gia đang phát triển, từ thành thị đến nông thôn, từ những người có học đến giới bình dân” (Nguyễn Hưng Quốc, 2008).

4.

Câu chuyện 40 năm trước, ngồi lớp Chín, tôi từng tập tọng làm thơ bằng tiếng Pháp, vì nghĩ rằng đó là thứ ngôn ngữ qua đó các sáng tác của tôi dễ đến với thế giới rộng lớn. Sau non một năm tôi đã dừng lại, vì… bất lực. Sự thể không nói lên điều gì khác ngoài tinh thần dân tộc của tuổi trẻ tôi.

Hôm nay đã khác, đứa con tôi đang thoải mái diễn đạt ý tưởng qua thơ, tản văn bằng tiếng Anh. Và chắc chắn, trong môi trường toàn cầu hóa, bạn trẻ ấy sẽ không dừng lại. Đó là phương cách ngắn nhất nhập cuộc thế giới hiện tại. Tại sao? Người Chăm hiện nay cư trú nhiều địa phương khác nhau trên đất nước Việt Nam, nói và viết đang dần tách rời nhau; cộng đồng Chăm hải ngoại sử dụng ngôn ngữ bản địa khác nhau. Do đó, tiếng Anh sẽ là phương tiện khả dĩ nhất kết nối tất cả họ lại, nếu muốn.

Còn với văn chương? Có thể nói, nếu hậu hiện đại trang bị cho nhà văn Chăm cảm thức mới, thì toàn cầu hóa cung ứng cho họ mọi phương tiện để hành động. Họ có thể “nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại” (Hoàng Ngọc-Tuấn, 2002). Jalau Anưk thôi thúc thế hệ trẻ đi tới, cũng là cách tự hối thúc:

Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoãi đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích
Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với
Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe chuyện ngày xưa bà kể

Đi đi em! Đi đi! – Mang hình em vào phố
tỏa hơi em vào phố
chìa cả sần sùi bàn tay em vào phố
và lớn lên cùng phố
phố sẽ trải ngực mình/ mở đôi vai mình
để lúc mệt nhoài em gối ngủ giấc trinh nguyên
phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời - rộng lắm!
mà ở đâu dưới vòm trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh
           
(Jalau Anưk, “Dưới vòm trời là những mái nhà”)


Phố không nuốt chửng em đâu”, thì tại sao phải ngại ngần? Jalau Anưk hỏi thế. Mưtai di kraung, mưtai di thatik/ Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei - Chết nơi biển cả sông sâu/ Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng - Xưa, ông bà Chăm đã từng nói thế. Thế hệ trẻ Chăm biết thế, và sẽ hành động theo tinh thần cái biết ấy. Toàn cầu hóa, thay vì xóa mất bản sắc Chăm, chính nó lại là một cơ hội tốt lành. Tại sao không?

Mở - thế hệ trẻ Chăm đã hết mình nhập cuộc chịu chơi. Nhưng họ sẽ về đâu, nếu không làm cuộc trở về? Bà con anh chị em họ sẽ ra sao, nếu họ một đi không trở lại?

Đường trở về
Gian nan trăm lần bước tha phương
Không chỉ đường trở về chúng ta còn làm quen với khuôn mặt quê hương
Không những bước tha phương chúng ta phải yêu thương con đường bóng tối

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Họ đã trở về. Như bạn thơ nữ từ Mỹ trở về với Aw dhai Cam áo dài Chăm quê hương. Làm thơ bằng tiếng Anh, bạn trẻ kia vẫn tổ chức dạy tiếng và chữ Chăm cho người đồng tộc ở địa phương. Hắn đi vào tận các làng quê hẻo lánh sinh hoạt cộng đồng, lập website Gilaipraung.com cho thanh niên khắp nơi Chăm gặp gỡ trao đổi,… Đó chính là nghĩ và làm theo phương châm hậu hiện đại: Think globally, act locally.

“Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương”, thế hệ nhập cuộc kia đã “gian nan” trở về. Nhà Trưng bày Văn hóa Chăm Inrahani đã được dựng lên tại quê nhà, dựng lên - không phải ở các trung tâm văn hóa lớn hay khu du lịch - mà giữa cộng đồng phục vụ cho cộng đồng. Với những lỉnh kỉnh xe trâu cổ, sách cổ Chăm, tác phẩm nghiên cứu về Chăm và của các tác giả Chăm, nhạc cụ đủ loại và nông ngư cụ xưa nay đã biệt tích, dệt thổ cẩm và nghề gốm, tủ sách đủ loại dành cho cộng đồng để anh nông dân có thể tạt qua tìm hiểu về nghề trong những giờ nông nhàn hay cô sinh viên về ghé vào nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp…

Tìm thấy bản sắc Chăm - nhập cuộc toàn cầu hóa - trở về với dân tộc mà vẫn mang nhân loại trong mình. Đó là biện chứng tinh thần thời hậu hiện đại. Chỉ như thế, chúng ta mới tồn tại như là tồn tại. Sẵn sàng mở cửa để hội nhập thế giới mà không sợ tự đánh mất mình.


Sài Gòn, 27-9-2011
I.R.S.R
(SH275/1-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Những trang sách này thể hiện nỗ lực nhìn và làm cho nhìn thấy Con người sẽ như thế nào và đòi hỏi điều gì, nếu ta đặt Con người vào khung cảnh của những hiện tượng bề ngoài, một cách toàn diện và triệt để. (Pierre Teilhard de Chardin).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Chúng ta đi tìm trong thơ tiếng nói của chính mình. Chúng ta nói trong những ước thúc chặt chẽ của ngôn ngữ và âm nhạc. Chúng ta nói chúng một cách tự do.

  • PHẠM TUẤN VŨ

    Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, địa danh không chỉ xuất hiện với số lượng lớn, tần số cao, mật độ đồng đều mà còn đem lại nhiều giá trị thẩm mĩ quan trọng.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG

    Tiểu thuyết theo xu hướng hậu hiện đại đã đặt ra nhiều vấn đề mới đối với các nhà nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam, buộc họ phải có những cách thức nhìn nhận, soi xét từ những hướng nghiên cứu chưa có tiền lệ.

  • ĐỖ QUYÊN   

    Chè ngon, nước chát xin mời
    Nước non non nước, nghĩa người chớ quên.

                            (Ca dao) 

  • KHẾ IÊM  

    Lâu nay, thơ Tân hình thức ít khi nhận được những góp ý rõ ràng, thẳng thắn, để mở ra những thảo luận, làm sáng tỏ thắc mắc của bạn đọc.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Mọi câu chuyện vĩ đại, về cơ bản, là một sự phản tư lên chính nó chứ không phải là một sự phản tư về thực tại.
                Raymond Federman
    Đối tượng mỹ học thuộc về cái tinh thần nhưng lại có cơ sở của nó ở trong cái có thực
                Roman Ingarden

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG 

    Ngôn ngữ thơ ca thức dậy mỗi ngày. Ngôn ngữ ấy nuôi dưỡng tình yêu của con người đối với thiên nhiên, sự hiểu biết và nối kết của họ, và một khả năng như thế có thể mạnh hơn những tàn phá đang xảy ra.

  • ĐẶNG ANH ĐÀO

    Đã từng có một cô gái Huế trong thơ, có lẽ không một địa phương nào, đặc biệt là chốn đô thị kinh kỳ nào lại có thể in hình người phụ nữ của mình vào thơ đậm đến thế.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG   

    Từ biểu tượng văn hóa, chó đã trở thành đề tài, cảm hứng trong nhiều loại hình nghệ thuật. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn học, với sự thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc về thế giới loài vật, các nhà văn đã sáng tạo nên những hình tượng đặc sắc, vừa quen thuộc, gần gũi, vừa mới lạ, độc đáo.

  • JANE CIABATTARI

    Lần đầu tiên đọc tác phẩm của Jorge Luis Borges cũng giống như khi chúng ta phát hiện ra một mẫu tự mới trong bảng chữ cái hay một nốt nhạc mới trên âm giai vậy.

  • LÊ TỪ HIỂN

    1. Ngôi sao mai lạc nẻo mưa giăng

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Cuộc sống khả hữu luôn thử thách tôi và bạn trong bất kỳ tồn tại không gian và thời gian nào. Dĩ nhiên, suy nghĩ vậy sẽ cản trở sự vượt qua giới hạn cần phải có của bản thân.

  • MỘC MIÊN

    Là người đến với văn chương khá muộn nhưng chỉ với một tác phẩm tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, tác giả Lê Thanh Kỳ cũng đã ghi dấu ấn đáng chú ý đối với nền văn xuôi Việt Nam đương đại.

  • PHẠM TUẤN VŨ

    Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học không phải là vấn đề mới mẻ. Từ xưa, cổ nhân đã nói đến vấn đề “ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị 意在言外, 玄外之音, 甘餘之味” (ý ở ngoài lời, âm thanh ở ngoài tiếng đàn, mùi ở ngoài vị ngọt), “ngôn tận ý bất tận” 言盡意不盡 (lời cạn ý không cạn) của văn chương, nhất là thơ ca.

  • Rebecca Solnit (1961) hiện sống tại San Francisco, California, là nhà phê bình, tác giả của 16 cuốn sách thuộc nhiều lĩnh vực như môi trường, chính trị, nghệ thuật.

  • BÙI THANH TRUYỀN

    1.
    Ngay từ khi mới ra đời, thiên tiểu thuyết dày 800 trang Tuổi thơ dữ dội 1 đã gây tiếng vang lớn. Đây là kết quả của 20 năm lao động miệt mài của Phùng Quán trong nỗ lực phi thường vượt thoát những nghịch cảnh đời riêng để một lòng với lí tưởng sống và viết.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Thật vui mừng và ngạc nhiên, khi vừa chưa tròn năm trước, đọc tập thơ đầu tay của Trần Lê Khánh Lục bát múa (Nxb. Hội Nhà văn 2016), nay lại được cầm trên tay tập thứ hai Dòng sông không vội (Nxb. Hội Nhà văn, quý III, 2017).

  • KHẾ IÊM
       (Kỳ cuối)

    VIII. Nhà thơ William Carlos Williams
    Phản ứng với Ezra Pound và T. S. Eliot, nhà thơ William Carlos Williams ngược lại, sáng tác loại thơ, ai cũng có thể hiểu được.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Thân phận con người có được “hiểu thêm” qua lăng kính lịch sử, được hướng dẫn tư duy phán đoán để ứng phó với cuộc sống thường nhật hay những biến thiên của thời đại?