PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.
Mọi sáng tác, trào lưu và thể loại văn học đều xuất phát từ ngoại biên, rồi theo thời gian tiến dần vào trung tâm. Đọc văn chính là hành trình ngoại biên hóa trong tương quan với ý đồ khởi nguyên của tác giả. Công trình nghiên cứu Những khu vực văn học ngoại biên (Nxb. Hội Nhà văn và Tao đàn, 2020) vừa được ra mắt của Phan Tuấn Anh là sự kiện đầy ý nghĩa, thể hiện ý thức chủ động của người làm công tác lý luận, phê bình trong việc tiên phong cất lên tiếng nói đối thoại cho những giá trị ngoại biên.
Cuốn sách mở đầu bằng tiểu luận đề dẫn về lý thuyết ngoại biên, cụ thể là giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại biên trên ba bình diện: đời sống, triết học và văn học. Giải quyết mối quan hệ trung tâm - ngoại biên trong văn học, Phan Tuấn Anh đặt trọng tâm ở phương diện lý thuyết và cho thấy sở trường bao quát các trường phái lý luận văn học từ thế kỷ XX có bàn về khái niệm ngoại biên như hình thức luận, phê bình mới, mỹ học tiếp nhận, giải cấu trúc luận, lý thuyết đa hệ thống, lý thuyết văn hóa trào tiếu dân gian… Sự thay đổi trong tương quan vị thế giữa trung tâm và ngoại biên được tác giả gắn với sự vận động của hệ hình tư duy từ tiền hiện đại đến hiện đại và hậu hiện đại. Tư duy hậu hiện đại dựa trên mô hình cân bằng giữa trung tâm và ngoại biên chính là hệ hình tư duy tiêu biểu của thời đại chúng ta đang sống.
Từ đó, tác giả triển khai 6 tiểu luận trải rộng trên nhiều lĩnh vực văn học. Cái chung của 6 tiểu luận này, hiển nhiên, đều có đối tượng là những hiện tượng văn học ngoại biên, hay ít nhất, đã từng bị cách ly ở vùng ngoại biên: văn học mạng/ máy tính, hư cấu lịch sử, thơ tân hình thức và truyện tranh. Trong số này, văn học mạng/ máy tính và truyện tranh là hai khu vực, có thể khẳng định không cần băn khoăn, Phan Tuấn Anh là người đầu tiên ở nước ta có những bước đi đầy hứng khởi đặt nền tảng lý luận về thể loại.
Năm 2007, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Huế hoàn toàn ngạc nhiên và lạ lẫm khi một sinh viên chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp về Truyện tranh và truyện tranh Nhật Bản, ngay sau đó đề tài được tiếp tục phát triển và đạt giải nhì cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc. Đây chính là thành quả khởi điểm đầy ý nghĩa khích lệ cho chặng đường mười năm nghiên cứu tiếp theo của Phan Tuấn Anh. Phần tinh túy nhất của đề tài ấy được tác giả đưa vào cuốn sách vừa xuất bản: vấn đề thi pháp truyện tranh và vấn đề tiếp nhận truyện tranh trong bối cảnh hậu hiện đại. Nhìn vào hệ thống luận điểm được anh phân tích và diễn giải, hẳn chúng ta phải thừa nhận rằng, truyện tranh thực sự là đối tượng cần phải được nghiên cứu cẩn trọng, đặc biệt ở đất nước mà thể loại này có vai trò thiết yếu trong việc bồi đắp tuổi thơ và định hình nhân cách của thế hệ trẻ như Việt Nam, dù dư luận xã hội có chấp nhận thực tế ấy hay không.
Đặc biệt giá trị và tạo được nhiều sức lôi cuốn nhất trong toàn bộ cuốn sách là loạt tiểu luận về văn học mạng/ máy tính. Lý luận về một nền văn học mạng được Phan Tuấn Anh kiến tạo trên cơ sở tác động của những thiết chế truyền thông đa phương tiện lên đời sống vật chất và tinh thần của xã hội hậu hiện đại, mà dấu mốc của nó là sự xuất hiện của máy vi tính và mạng internet. Hệ quả là sự bùng nổ truyền thông và sự ra đời của một ý thức hệ mới như xác tín của Ph. Breton và S. Proulx. Điểm cốt lõi của đời sống văn học dưới các thiết chế truyền thông đa phương tiện là nó được xây dựng trên nền tảng của hệ hình ngôn ngữ mới: ngôn ngữ nhị phân. Một khí quyển sinh tồn mới của văn học được khởi sinh trên mọi phương diện. Đó vừa là thách thức to lớn vừa là tiềm năng vô hạn cho lực lượng sáng tác và lực lượng nghiên cứu văn học hiện nay. Vậy, một tác phẩm như thế nào thì được xem là đại diện của văn học mạng/ máy tính? Câu trả lời được Phan Tuấn Anh cụ thể hóa trên hai hiện tượng kỳ thú nhưng cũng vô cùng dị biệt của văn chương đương đại: Anh chàng xe điện của Hitori Nakano và 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân. Trong đó, tiểu luận về 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] có thể xem là nghiên cứu thuyết phục và lý thú bậc nhất về Đặng Thân nói riêng và văn học mạng nói chung.
Ham muốn và cách thức tiếp cận truyện tranh và văn học mạng của Phan Tuấn Anh khiến tôi nhớ đến những công việc M. Bakhtin đã làm với thể loại tiểu thuyết. Chắc rằng thái độ dấn thân của bậc thức giả mà anh hằng ngưỡng mộ đã cho anh không ít cảm hứng trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu và đối mặt với những vấn đề hóc búa của nó.
Văn học hư cấu về đề tài lịch sử là vấn đề không mới, nhưng lại được Phan Tuấn Anh đặt trong sự nhận diện khá công phu. Văn xuôi Việt Nam khai thác đề tài lịch sử từ 1986 đến nay, theo Phan Tuấn Anh, là hành trình đi từ ngoại biên đến trung tâm của lập trường đề cao thuộc tính hư cấu. Hành trình này được kiến tạo cơ sở từ ba tiền đề tư tưởng, triết học: sự vận động căn bản trong cách hiểu về bản chất của ngôn ngữ và văn bản trong nghiên cứu khoa học xã hội; sự thay đổi quan niệm về tính chân xác của tri thức khoa học; và sự hiện diện của những quan điểm mới về triết học lịch sử. Tất cả đã mở rộng chân trời sáng tạo cho hư cấu lịch sử. Song, chân trời tưởng như vô hạn ấy thực chất vẫn có giới hạn, như cách liên tưởng độc đáo của nhà nghiên cứu, là “trên bàn tay của Như Lai”. Vì không thể tách rời điểm tựa lịch sử, sáng tạo văn học về đề tài lịch sử luôn bị hạn định trong cứ liệu lịch sử, trong logic lịch sử, đi kèm với đó là mọi vấn đề liên quan đến bối cảnh văn hóa của thời đại lịch sử được tái hiện. Quan trọng hơn, “trải qua lịch sử lâu dài với nhiều tai biến, địch họa và chiến công, người Việt càng có ý thức đề cao, xem trọng sự kiện lịch sử, nhất là các chiến thắng ngoại xâm, mở mang văn hiến. Do đó, những sáng tác lệch chuẩn, giai thiêng, giễu nhại… nhân vật và sự kiện lịch sử đương nhiên phải chịu số phận long đong, bởi nó đi ngược lại tâm lý độc giả”. Như vậy, bắt nguồn từ đặc trưng thể loại, văn học về đề tài lịch sử vốn dĩ đã là sáng tạo trong hạn định.
Tập hợp những tiểu luận từng công bố trong suốt mười năm nghiên cứu vào một cuốn sách có chung chủ đề văn học ngoại biên, nhưng không tạo nên cảm nhận về sự ghép nối khiên cưỡng, điều đó cho thấy một định hướng học thuật vững chãi và xuyên suốt của tác giả, dẫu có lẽ lúc đầu chỉ dừng lại ở sự nhạy cảm trong tư duy khoa học. Một chặng đường khoa học không dài, nhưng đây đã là công trình thứ ba được xuất bản, tiếp sau Garbriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại (Nxb. Văn học, 2015) và Văn học Việt Nam đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu (Nxb. Văn hóa - văn nghệ, 2019). Những khu vực văn học ngoại biên có thể được xem như một cuốn sách tổng kết thành tựu mười năm, nhưng đồng thời nhiều giá trị khoa học trong đó vẫn hứa hẹn tiềm năng rất lớn phía trước. Chẳng hạn, một chuyên luận công phu và dày dặn về văn học mạng/ máy tính? Điều đó hoàn toàn khả dĩ.
P.T.H.L
(SHSDB36/03-2020)
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.