Văn học đổi mới - Từ những góc độ diễn giải

08:47 20/07/2021

PHAN TRẦN THANH TÚ    

Công cuộc Đổi mới đã diễn ra hơn 30 năm trong lòng xã hội Việt Nam với dấu mốc trọng đại là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.

Tinh thần đổi mới từ năm 1986 đã mang lại những thành tựu lớn lao cho đất nước. Ngọn gió đổi mới cũng đã đem đến những cái “mới”, cái “khác” cho nền văn học nước nhà. Chính sự “cởi trói” về tư tưởng đã du nhập những hệ thống triết học về nghệ thuật khác với truyền thống, mang những lý thuyết phê bình mới vào đời sống văn học Việt Nam, phổ biến những tác giả, tác phẩm lớn của nhân loại, mà vì nhiều lý do, trước đây công chúng văn học trong nước chưa có điều kiện để tiếp cận.

Việc nhìn nhận những thành tựu văn học nước ta thời kỷ Đổi mới vẫn là một thách thức của những người làm công tác nghiên cứu - phê bình văn học. Có nhiều lý do, nhưng trong đó có hai lý do quan trọng: Đổi mới vẫn là thời kỳ “đang diễn ra” chứ không phải “đã kết thúc”, mọi nhận định, đánh giá về thành tựu của văn học Việt Nam thời Đổi mới vẫn phải đặt trong “cái nhìn động”. Thứ hai, đời sống văn học Việt Nam thời Đổi mới thật sự sôi động và phong phú trên nhiều mặt, từ tư tưởng, quan niệm nghệ thuật, phương pháp sáng tác và sự đa dạng của lý thuyết phê bình… Do vậy, đánh giá về thành tựu cũng như giá trị của thời kỳ này cần có một kiến văn đủ rộng để có thể nhìn thấy được mỹ học của cái mới, cái “khác”. Nghĩa là cần đọc các tác phẩm bằng chính lý thuyết căn nền được nhà văn sử dụng trong sáng tác, để không bỏ qua những mã thẩm mỹ của văn bản mà nếu dùng cái nhìn từ bên ngoài, vận dụng những lý thuyết đọc không tương thích thì sẽ không thấy được các mã thẩm mỹ của tác phẩm.

Trước những khó khăn vừa nêu, ta thấy Văn học Việt Nam Đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu [Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, 2019 - mọi trích dẫn trong tiểu luận đều từ nguồn này] của Phan Tuấn Anh là công trình khoa học thật sự có ý nghĩa, có những đóng góp nhất định vào việc thông hiểu sâu sắc hơn những thành tựu của văn học nước nhà trong 30 năm đổi mới.

1. Người phu chữ đa văn

Ấn tượng đầu tiên của người đọc khi tiếp cận công trình này, đó là tác giả có một tinh thần làm việc nghiêm túc và một vốn kiến thức rộng. Phan Tuấn Anh đã vận dụng những lý thuyết như chủ nghĩa hậu hiện đại, thi pháp học, mỹ học tiếp nhận, lý thuyết hệ hình trong nghiên cứu, phê bình một cách phù hợp và hiệu quả… Khi đọc công trình, ta thấy tất cả những lý thuyết được vận dụng không phải để tác giả phô diễn kiến thức cũng như làm tăng tính “thời thượng” cho cuốn sách, mà đó thực sự là một nhu cầu tự thân của nhà nghiên cứu nhằm chỉ ra những giá trị của mỗi tác phẩm được lựa chọn làm “điểm nhìn tham chiếu”. Về việc vận dụng đa dạng các lý thuyết phê bình của tác giả, người đọc thật sự bị thuyết phục bởi Phan Tuấn Anh đã làm chủ những công cụ lý thuyết một cách chắc chắn, đi từ quan niệm triết học nền tảng đến sự vận dụng trong phê bình văn học.

Điển hình, Phan Tuấn Anh đã vận dụng một cách lý thú các lý thuyết phê bình để giải mã các mã thẩm mỹ trong tiểu thuyết Không biết đâu mà lần của Văn Thành Lê. Anh đi từ lý thuyết trò chơi ngôn ngữ (language games) của L. Wittgenstein đến quan niệm của F. de Saussure về tính không tương thích của “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt” trong triết học ngôn ngữ cấu trúc. Anh vận dụng tư tưởng của các nhà triết học giải cấu trúc như J. Derrida, M. Foucault, R. Barthes, J.F. Lyotard để khẳng định tính chất “phì đại ngôn ngữ”, “các câu văn có xu hướng bành trướng, chú ý đến sự diễn trò, sự tách rời giữa chữ và nghĩa, lời và vật” là một đặc trưng thi pháp nổi bật của Văn Thành Lê. Tiểu thuyết Không biết đâu mà lần dưới cách đọc của Phan Tuấn Anh thực sự là một trò chơi ngôn ngữ điển hình, ở đó những thủ pháp như nghịch dị, nhại được sử dụng để nhà văn khái quát lên bản chất hỗn độn (chaos), ngụy tạo của (simulacra) của thế giới.

Với trường hợp tiểu thuyết Chú bé mang ba lô màu đỏ của Nguyễn Đình Tú, Phan Tuấn Anh đã vận dụng mỹ học tiếp nhận (Receptional Aesthetic) để chỉ ra rằng đó thật sự là một kiệt tác dành cho không chỉ thiếu nhi mà tất cả chúng ta, vì nó “có khả năng “lớn lên” cùng bạn đọc”, là tiểu thuyết mà “mỗi độ tuổi sẽ tìm thấy trong thế giới tuổi thơ ấy câu chuyện và thông điệp của riêng mình”. Thành công của tiểu thuyết là đã sử dụng một “chiến lược tự sự kép” để mọi người đọc ở bất kỳ tầm đón nhận nào đều có thể soi mình vào tác phẩm. Từ đó, Phan Tuấn Anh đi đến nhận định, Chú bé mang ba lô màu đỏ dưới góc nhìn mỹ học tiếp nhận, xứng đáng là một kiệt tác. Ở đây, người đọc thật sự được thuyết phục khi nhà phê bình dùng một lý thuyết tương thích để soi chiếu vào tác phẩm mà nếu dùng những lý thuyết khác, những giá trị của tác phẩm chẳng thể nào hiển lộ một cách tường minh như thế. Đó chính là sự tinh tế và tài hoa của người làm công tác phê bình. Anh ta sẽ đề xuất những cách đọc phù hợp để qua đó chắt lọc được tinh huyết của từng tác phẩm.

Với tiểu luận “Lý luận phê bình văn học Việt Nam đổi mới - cấu trúc tam tài”, Phan Tuấn Anh, với cái nhìn bao quát, đã thực hiện một khái quát khá đầy đủ và sinh động về sự thay đổi hệ hình (paradigm shift) trong văn học Việt Nam từ 1975 đến hai thập kỷ đầu thế kỉ XXI.

Về văn học Việt Nam từ 1975 đến 1985, tác giả công trình đã khái quát một cách hình tượng là giai đoạn văn học “hướng thiên” gắn với hệ hình tư duy “tiền hiện đại”. Nhà văn và nhà lý luận phê bình hướng đến những tiêu chí ngoài văn học trong sáng tác và phê bình, tuân thủ “nguyên tắc phản ánh” với những “cấu trúc đồng đẳng”. Văn học giai đoạn này vận động theo quán tính của văn học thời chiến, và hệ quả là dần trở nên “cứng nhắc, thiếu sức sống”. Từ đó, đổi mới và cách tân là một đòi hỏi sống còn của văn học nước nhà.

Tinh thần đổi mới từ Đại hội VI, và văn học nước ta từ 1986 đến hết thế kỷ XX, qua cách nói hình tượng của Phan Tuấn Anh, là giai đoạn “quy địa”, đã thực sự mang ý nghĩa phục hưng lớn lao. Văn học giai đoạn này đã “giải thiêng” phản ánh luận và thực hiện quá trình “nhận thức lại những chức năng và thuộc tính của văn học” một cách sâu sắc. Chính điều đó đã giúp văn học Việt Nam chuyển đổi hệ hình sang tư duy hiện đại, lấy văn bản làm trung tâm và thật sự hướng đến con người trong ý nghĩa toàn vẹn nhất của nó.

Qua cái nhìn của tác giả, giai đoạn từ đầu thế kỉ XXI đến nay, văn học Việt Nam đã tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại, chuyển sang hệ hình tư duy hậu hiện đại, lấy người đọc làm trung tâm. Điều này đã góp phần cho văn học tạo sinh những cái mới, giãn nới không gian dân chủ trong sáng tạo và tiếp nhận, giúp văn học Việt Nam hội nhập sâu sắc hơn vào quỹ đạo của văn học khu vực và thế giới.

Đọc toàn bộ công trình, ta thấy tất cả những kiến văn và diễn giải của Phan Tuấn Anh, không có mục đích nào ngoài khao khát thúc đẩy cái mới, cái tiến bộ, cái cách tân của văn học nước nhà trên cả ba phương diện: tác giả, văn bản và người đọc.

2. Suối nguồn tuổi trẻ

Như đã trình bày, công trình Văn học Việt Nam Đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu của Phan Tuấn Anh thể hiện một khao khát cách tân, đổi mới văn học Việt Nam trong cái nhìn có phạm vi quốc tế. Khát khao đó được gửi gắm ở những người viết trẻ. Cuốn sách, do vậy, dành sự quan tâm đặc biệt về những tác giả trẻ cả trên lĩnh vực sáng tác lẫn nghiên cứu, phê bình.

Ở tiểu luận “Văn học trẻ Việt Nam giai đoạn Đổi mới”, tác giả đã khái quát tiến trình vận động của văn học Việt Nam trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI với ba lần chuyển đổi hệ hình: từ văn học trung đại phương Đông sang văn học tiền hiện đại phương Tây vào đầu thế kỷ XX; từ tiền hiện đại sang hiện đại vào những năm 60 của thế kỷ XX; từ hiện đại sang hậu hiện đại từ 1986. Trong đó, Phan Tuấn Anh đã khẳng định, ở mỗi bước chuyển hệ hình, đóng góp quan trọng thuộc về những cây bút trẻ. Cụ thể, vào những năm 30 của thế kỷ XX, “văn học Việt Nam chứng kiến vai trò cách tân quyết liệt và lập ngôn một cách róng riết của thế hệ cầm bút trẻ trên dưới hai mươi tuổi như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Nhược Pháp, Hàn Mặc Tử…”. Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, “Ở miền Bắc có thể ghi nhận vai trò tiên phong của thế hệ cầm bút trẻ trên dưới ba mươi tuổi như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm… Ở miền Nam là Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng…”. Từ 1986 đến nay, bước chuyển hệ hình từ hiện đại sang hậu hiện đại đã được thực hiện với những đóng góp không nhỏ của những cây bút trẻ như Lê Minh Phong, Trịnh Sơn, Nguyễn Thế Hoàng Linh… trong sáng tác và những cái tên mới như Đoàn Minh Tâm, Nguyễn Mạnh Tiến, Đoàn Ánh Dương, Trần Thiện Khanh, Phạm Xuân Thạch trên lĩnh vực lý luận phê bình… Đồng thời Phan Tuấn Anh nhất quyết định danh họ “thế hệ f” (thế hệ facebook với lối viết status - entry, thế hệ viết trên mười đầu ngón tay).

Người đọc dễ thấy rằng, Phan Tuấn Anh cũng là một người viết trẻ, hoạt động trên cả lĩnh vực sáng tác lẫn lý luận phê bình, nên anh đặt nhiều kỳ vọng vào thế hệ của mình. Đọc hết công trình Văn học Việt Nam Đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu của anh ta thấy được nhãn quan thức thời, nhạy bén với cái mới, nhưng đồng thời, anh cũng đủ sâu sắc để nhận rõ ưu thế và giới hạn của thế hệ mình. Phan Tuấn Anh khẳng định, những người cầm bút trẻ của Việt Nam giai đoạn Đổi mới hôm nay “có nhiều cơ hội học hỏi thế giới cũng như có nhiều đất diễn hơn cho các thể nghiệm của mình… tiếp cận nhanh và trực tiếp hơn các trào lưu nghệ thuật đương đại”, họ cũng là những “người của công chúng, biết vận dụng các phương tiện truyền thông nhằm tiếp cận bạn đọc và quảng bá tư tưởng nghệ thuật cho tác phẩm”. Tuy vậy, tác giả cuốn sách cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, “điểm yếu của những nhà văn trẻ hiện nay, đó là chưa kết hợp lại được thành những trường phái nghệ thuật một cách tự giác. Sự đa dạng đến mức tự phát và thiếu định hướng nghệ thuật một cách kiên trì và căn cốt đã biến chất lượng nghệ thuật giữa các tác phẩm hết sức bấp bênh… Chính vì vậy, giá trị đỉnh cao từ sáng tác trẻ trong giai đoạn này có lẽ vẫn phải chờ đợi ở tương lai”.

Những khái quát, nhận định của Phan Tuấn Anh về vai trò và vị trí của người viết trẻ trong sự vận động của văn học Việt Nam đổi mới vẫn còn đôi chỗ có thể cần đối thoại, song từ những trang viết, ta thấy được lòng nhiệt thành và thái độ nghiêm túc của một người viết trẻ. Có thể nói, đến nay, Phan Tuấn Anh là một trong những nhà phê bình viết nhiều nhất để xác lập vị trí của những người viết trẻ trong quá trình đổi mới văn học dân tộc, bởi anh khát khao cống hiến, cách tân, thay đổi, và đặc biệt, dám đặt cược bản thân và thế hệ mình vào hành trình sáng tạo.

3. Ngọn hải đăng không bao giờ tắt

Phan Tuấn Anh, trong mọi công trình khoa học hay tác phẩm thơ được in, đều giới thiệu mình là người con xứ Huế. Huế là một phần quan trọng kiến tạo nên bản sắc, cốt cách và tinh thần của anh. Với cuốn Văn học Việt Nam Đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu, Phan Tuấn Anh cũng không quên dành một phần lớn dung lượng để viết về văn học vùng đất Cố đô, như một cách kín đáo để thể hiện tình yêu với mảnh đất và con người nơi anh được sinh ra.

Tiểu luận “Sự vận động hệ hình của thơ ca Cố đô Huế ba mươi năm đổi mới” là một khái quát khá toàn diện và sâu sắc về thành tựu của thơ ca xứ Huế giai đoạn này. Từ tiểu luận, chúng ta thấy được mối cảm hoài của tác giả khi Huế không còn là kinh đô của cả nước. Khi không còn là kinh đô của Việt Nam, “đã khiến Huế không còn là trung tâm lý luận phê bình văn học nói riêng và nghiên cứu văn học nói chung”. Với văn xuôi, “Huế chỉ xứng đáng là “cố đô” (ngoại biên) hơn là “kinh đô” (trung tâm) của nền văn xuôi nước nhà”. Duy chỉ trên địa hạt thơ ca, và cũng chỉ nhờ thơ ca, Huế vẫn duy trì được vị thế là “ngọn hải đăng không bao giờ tắt” của văn học cả nước trong thời Đổi mới. Phan Tuấn Anh đã vận dụng lý thuyết hệ hình để chỉ ra rằng, thời kỳ Đổi mới, tại Huế cũng đã diễn ra những sự biến đổi hệ hình thơ ca, và với hệ hình nào cũng xuất hiện những thành tựu có ý nghĩa.

Với hệ hình thơ ca tiền hiện đại, thì Huế có những “cây đa cây đề” như Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Vàng Sao, Hồng Nhu, Ngô Minh… Với hệ hình thơ hiện đại, Huế có nhiều tên tuổi lớn với những phong cách riêng. Phạm Nguyên Tường là “người đi tiên phong trong cách tân thơ” để vươn đến bến bờ của mỹ học tượng trưng, siêu thực. Nguyễn Trọng Tạo với khát vọng dân chủ cháy bỏng trong thơ cùng cảm quan “đổ vỡ niềm tin về các đại tự sự” nên mang cốt cách rất “hậu hiện đại”. Nguyễn Khắc Thạch với phong cách “thiền định nắm bắt mắt thơ qua đốn ngộ”, trình diễn một phong cách thơ kiệm lời như quan niệm của John Barth: “Thời đại chúng ta đang sống là thời đại của sự lặng im”.

Bước sang hệ hình thơ ca hậu hiện đại, Huế vẫn xuất hiện những tác giả và thi phẩm để lại dấu ấn như Họng đêm của Nguyễn Lãm Thắng hay Tơ sương của Hồ Thế Hà. Nhưng theo Phan Tuấn Anh, chính Tân hình thức mới là điều mang lại vị thế của thơ Huế trên thi đàn Việt Nam. Bởi “thơ Tân hình thức là một trào lưu/thể loại thơ hậu hiện đại có tầm ảnh hưởng rộng lớn, với sự tham dự của nhiều nhà thơ cả trong và ngoài nước”, mà Huế “là quê hương thứ hai của thơ Tân hình thức, nơi chứng kiến sự hưng thịnh của thể loại/trào lưu này” qua cuộc hôn phối với Tạp chí Sông Hương trên cơ sở tình tri âm giữa chủ soái Tân hình thức Khế Iêm và nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc.

Bằng sự trải nghiệm cùng hiểu biết sâu sắc về thơ ca nơi vùng đất mình sinh sống, Phan Tuấn Anh đã có những khái quát và nhận định đầy sức thuyết phục để người đọc thấy được, với thơ ca, Huế luôn là một trong các trung tâm lớn của cả nước trong thời kỳ Đổi mới và thậm chí cả tương lai, mãi là ngọn hải đăng không bao giờ tắt trong sự vận động của tiến trình thơ Việt Nam (hậu) hiện đại.

Như vậy, với dung lượng gần 300 trang sách, Văn học Việt Nam Đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu của Phan Tuấn Anh đã đưa người đọc phiêu lưu qua những vùng đất chữ, chiêm ngưỡng và tận hưởng những hoa trái viên thành từ suối nguồn dòng nước canh tân. 300 trang sách không phải là một dung lượng quá đồ sộ, nhưng chừng đó cũng đủ cho độc giả có một cái nhìn khái quát về thành tựu của văn học Việt Nam 30 năm đổi mới, trên tất cả các lĩnh vực: sáng tác, lý luận, phê bình. Tác giả cũng cho người đọc hình dung rõ hơn về sự vận động không ngừng nghỉ, mặc dù có khi hiển lộ, khi âm thầm của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới qua các bước chuyển hệ hình quan trọng. Cuốn sách cũng đã thể hiện cái nhìn, sự đánh giá không ngần ngại về thành công cũng như hạn chế của những người viết trẻ hôm nay. Và, điều đặc biệt là công trình đã dành một dung lượng lớn để khái quát nên tiến trình vận động cũng như những thành công của thơ ca Huế trong dòng chảy văn học Việt Nam Đổi mới như một sự tri ân đối với vùng đất nơi Phan Tuấn Anh được sinh ra. Dẫu còn một vài chỗ cần phân tích thấu đáo hơn và đôi chỗ cần có thêm những đối thoại, trao đổi, nhưng nhìn một cách tổng quan, Văn học Việt Nam đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu là cuốn sách có nhiều tác động tích cực trong nghiên cứu, tổng kết khái quát thành tựu của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.

P.T.T.T  
(TCSH388/06-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...