Văn học dân tộc - Thế giới hiện đại

09:52 29/07/2008
PHONG LÊ(Nhìn từ bình diện ngôn ngữ)Dân tộc là một phạm trù lịch sử. Văn học dân tộc do vậy cũng là một phạm trù lịch sử, hình thành và phát triển theo lịch sử.

Sự hình thành các dân tộc ở phương Tây đưa tới sự hình thành các nền văn hóa dân tộc ở Châu Âu là một quá trình kéo dài nhiều thế kỷ. Phải đến một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, tương ứng với sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì các nền văn học dân tộc ở phần châu lục này mới có thể hình thành.
Nhưng văn học dân tộc vẫn tiếp tục là một khái niệm không đơn giản, không đơn nghĩa. Bởi lẽ vấn đề dân tộc có quan hệ chặt chẽ với một thực thể mang tính lãnh thổ: Quốc gia. Có quốc gia chỉ gắn với một dân tộc. Lại có quốc gia gắn với sự hình thành, sự tồn tại, sự chung sống của nhiều dân tộc. Ở đây cần dùng đến khái niệm đa dân tộc trong một nền văn hóa dân tộc. Đất nước ta có 54 dân tộc cùng cư ngụ, dân tộc nào cũng có tiếng nói riêng, nhưng trong đó mới chỉ có vài dân tộc có chữ. Liên Xô (cũ) trong hơn 70 năm trước đây - tính từ sau Cách mạng tháng Mười - 1917 là một đất nước đa dân tộc, và văn học Liên Xô (cũ) từng là một nền văn học! ớn, bao gồm nhiều nền văn học dân tộc.

Văn học trước hết là nghệ thuật của ngôn từ, và do thế nó là sự gắn nối giữa người viết và người đọc thông qua cầu ngôn ngữ. Tác phẩm ra đời cần có người đọc; và thế giới người đọc càng là số đông, càng mở rộng được không gian càng tốt. Nhà văn của bất cứ dân tộc nào trên thế giới, cũng như nhà văn của cộng đồng đa dân tộc trong bất cứ quốc gia nào cũng rất mong vươn tới con số đông người đọc. Nhưng kết quả đó, nếu một mặt bị giới hạn bởi ngôn ngữ; thì  mặt khác, vẫn có lối thoát bằng việc tìm đến các chuyển ngữ; và thông qua các chuyển ngữ nó vẫn có hướng để tiếp cận và mở rộng thế giới người đọc. Chọn một vài ví dụ: Vơlađimia Xan-ghi, người của bộ tộc Nivkh ở bán đảo Xakhalin có khoảng bốn ngàn rưỡi cư dân là người viết cho cả thế giới người đọc của Liên Xô (cũ). Đaghetxtan là một xứ cộng hòa tự trị của Liên Xô (cũ), trên bán đảo Kapka, gồm nhiều nước Cộng hòa, với số dân khoảng một triệu rưỡi người, nhưng có đến 27 thứ tiếng dân tộc và thổ ngữ. Và Raxun Gămdatốp, tác giả tập văn xuôi trữ tình nổi tiếng: Đaghextan của tôi là người viết bằng tiếng Ava, tiếng của một bộ tộc nhỏ chỉ được sử dụng trong khoảng hai mươi lăm ngàn người. Thế mà nhà thơ viết bằng ngôn ngữ của hai mươi lăm ngàn người ấy đã có thể chuyện trò, tâm sự, đối thoại với nhiều triệu độc giả trên thế giới, cố nhiên với vai trò môi giới của chuyển ngữ Nga.
Kinh nghiệm dễ nhận thấy và có thể được đúc kết ở đây là người làm thơ thường khởi đầu từ ngôn ngữ mẹ đẻ. Bởi lẽ ở ngôn ngữ mẹ đẻ, và không có gì thay thế nó được, mới là nơi tích lũy và thể hiện rõ nhất nguồn cảm xúc, lối cảm nghĩ riêng của mỗi dân tộc. Hẳn chắc vì lý do ấy mà I.Brodxki, nhà thơ Liên Xô (cũ) sang Mỹ định cư vào những năm 70, giải Nobel văn chương 1987, cho biết ông viết văn trực tiếp bằng tiếng Anh, nhưng làm thơ bao giờ cũng bằng tiếng Nga - là tiếng mẹ đẻ.
Nguyễn Du có cả một di sản lớn thơ chữ Hán, nhưng không có gì ông viết ra mà thay thế được Truyện Kiều, trong khả năng làm mê mẩn người đọc, nhờ vào "lời quê" - đó chính là lời Nôm, trong thể lục bát của ca dao. Viết Truyện Kiều trong bối cảnh nền văn học Trung đại, và trong một nỗi niềm tâm sự riêng, bằng lời Nôm, bất kể "nôm na là cha mách qué", tôi nghĩ có lẽ Nguyễn Du không hề muốn lưu danh hậu thế, nhưng sự thật diễn ra đã rất khác.
Lại cũng có hiện tượng một tác giả viết bằng nhiều thứ tiếng, và trở thành tác giả quan trọng không phải chỉ riêng cho ngôn ngữ mẹ đẻ. Trong văn học Ấn Độ R.Tagorơ viết bằng tiếng Bengali, cũng đồng thời viết hoặc tự dịch sang tiếng Anh. Gioc Lucát, người Hung và Lu-y Fuya-nơ-béc, người Tiệp cùng viết bằng tiếng Đức. Milan Kunđêra, người Tiệp viết bằng cả hai thứ tiếng Pháp và Tiệp... Vậy ở đây xếp họ vào hệ ngôn ngữ nào, và họ thuộc văn học dân tộc nào?

Cố nhiên là câu chuyện văn học dân tộc ta đang bàn, dẫu chỉ riêng ở khía cạnh
tiếng nói và chữ viết, vẫn còn là rất dài, và tiếp tục đẻ ra nhiều vấn đề, nếu nhìn chung cả tổng thể văn học nhân loại. Chẳng hạn nếu đã có nhiều quốc gia đa dân tộc, với một nền văn học gồm nhiều ngôn ngữ, thì lại có những ngôn ngữ chung cho nhiều nền văn học dân tộc. Ở những ngôn ngữ lớn như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Đức... đó là ngôn ngữ của nhiều nền văn học, thậm chí là những nền văn học không nhỏ, với tất cả sự thỏa mãn những yêu cầu cơ bản của mỗi dân tộc và mỗi nền văn hóa dân tộc. Có văn học Anh, văn học Mỹ, văn học Ôxtrâylia, và một bộ phận văn học Ấn Độ... cùng viết bằng tiếng Anh. Có văn học Pháp, văn học , Mactinich, Rêuniông, Quebéc, quần đảo Ăngti... cùng viết bằng tiếng Pháp. Không kể bên cạnh văn học viết bằng tiếng Pháp còn có văn học viết bằng tiếng Crêông - là một biến thái của tiếng Pháp, cũng chiếm địa vị quan trọng ở một số nước Phơrăngcôphôn. Có văn học Áchentina, văn học Chilê, văn học ... bên cạnh văn học Tây Ban Nha. Có văn học Braxin bên cạnh văn học Bồ Đào Nha. Còn tiếng Đức đó là ngôn ngữ chung của văn học Đức, văn học Áo, và một phần văn học Thụy Sĩ... Việc cùng dùng chung một ngôn ngữ nhưng lại tạo nên những nền văn học dân tộc với bản sắc riêng rất khác nhau - đó cũng là hiện tượng quan trọng trong thế giới hiện đại.

Nhìn về văn học Việt , những hiện tượng của giao thoa và hội nhập cũng đã diễn ra từ rất lâu trong lịch sử.
Trong ngót 10 thế kỷ độc lập tự chủ, văn học Việt đã tồn tại và phát triển trên cả hai dòng thơ văn Hán - Nôm. Không một nhà nho nào lại không có một bộ phận lớn văn chương chữ Hán, mà niềm tự tôn về nó đã khiến cho nhà bác học Lê Quý Đôn, và ông vua tự nhận là hay chữ Tự Đức thường đem so sánh với nền văn chương Trung Hoa rực rỡ:
Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường
Câu chuyện người Việt viết bằng chữ Hán này còn kéo dài, và vẫn rất sôi nổi vào đầu thế kỷ XX qua sự nghiệp văn chương của nhà yêu nước lớn Phan Bội Châu là người chỉ chuyên viết bằng chữ Hán và Nôm cho đến năm 1941, là năm ông qua đời; và áng văn hẳn chắc đã có thể xem là sự kết thúc của dòng văn chương Hán-Việt này còn phải chờ đến năm 1942 của chính người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thế kỷ XX cũng đã xuất hiện những tác giả Việt Nam viết văn bằng các ngôn ngữ phương Tây, trong đó tấm gương tiêu biểu cũng vẫn là Nguyễn Ái Quốc, những năm 20, trong Bản án chế độ thực dân Pháp và trong các truyện ký ngắn rất sắc sảo, rất hiện đại, "rất Pháp" (theo đánh giá của Phạm Huy Thông); không kể hiện tượng Kỳ Đồng, bạn thân của họa sĩ Pôn Gô-ganh vào cuối thế kỷ trước cũng đã viết bằng tiếng Pháp trong vở kịch thơ Những mối tình của người hoạ sĩ trên quần đảo Mackidơ. Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại hôm nay, số người viết trẻ viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức... đang tăng; và tôi tin ở đội ngũ này sẽ không hiếm các tài năng. Và không phải là điều không nên mong mỏi, trong tương lai, có những người gốc Việt viết hay, và nổi tiếng ở một ngôn ngữ nước ngoài nào. Chỉ có điều nếu họ vẫn có hoàn cảnh không quên gốc Việt, không quên lời Việt - lời của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, lời của Nguyễn Khuyến, Tú Xương..., lời của Tản Đà, của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Bính... thì đối với văn học dân tộc, họ vẫn không là người xa lạ.

Nhân loại, và mỗi dân tộc trong đại gia đình nhân loại hôm nay đang phát triển trong một mối giao lưu rộng rãi và mật thiết hơn, do bước tiến của những cuộc cải tạo xã hội và do thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật. Những mạng, những máy điện toán, những phương tiện truyền thông đang gắn nối nhân loại vào cùng một mối quan tâm; và toàn cầu hóa đang là hiện tượng, là yêu cầu có tính thời đại... Và như thế, mọi vấn đề có liên quan đến sự phát triển của văn học dân tộc trong thế giới hiện đại dẫu chỉ xét riêng về phương diện tiếng nói và chữ viết, cũng cần được nhìn nhận trong một quan hệ toàn cảnh, để có ứng xử thích hợp với tiến trình chung của sự tiến hóa.
P.L

(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...