Văn hóa như là một yếu tố của an ninh quốc gia

17:04 23/11/2009
Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

Học sinh Xô viết, năm 1985 - Ảnh: Internet

Dựa trên thực tiễn của tình hình phức tạp và không ổn định vốn đang đe dọa nền an ninh quốc gia của nước Nga hiện nay như sự gia tăng và phổ biến những hành vi tội phạm chống xã hội, quy mô của nạn tham nhũng và những tệ nạn khác mang tính chất đại hà, sự vô hiệu lực của bộ máy hành chính nhà nước, sự đổ vỡ của những lý tưởng trước đây và sự mất lòng tin của đại bộ phận dân chúng..., tác giả chỉ rõ rằng nguyên nhân chủ yếu gây nên những mối hiểm họa này là "sự khiếm khuyết ở trong nước những điều kiện, những kích thích tố và những kỹ năng văn hóa để giúp cho tất cả các công dân có điều kiện tham gia một cách bình đẳng vào việc cạnh tranh xã hội tự do trên thị trường lao động và tài năng" (tr.181).

Bởi lẽ cơ sở của xã hội pháp quyền công dân không phải là nền kinh tế thị trường, cũng không phải là bản thân những hình thức quản lý dân chủ mà chính là khuynh hướng cạnh tranh lành mạnh của những cá nhân tự do, ở đó người nào có nghị lực hơn, cần mẫn hơn, có tài hơn, có trình độ nghiệp vụ cao hơn thì hiển nhiên sẽ có nhiều cơ may vượt các đối thủ của mình và thu hoạch được một khối lượng lớn phúc lợi xã hội. Và đó, theo Flier, "cũng chính là cơ sở văn hóa - xã hội của xã hội hiện đại; và ở nơi nào trình độ văn hóa đó cao hơn thì mức độ những hiện tượng tiêu cực xã hội, những mối hiểm họa nội tại đối với an ninh quốc gia sẽ thấp hơn nhiều." (tr.182).

Con người ta sinh ra vốn khác nhau về năng khiếu, về trí tuệ, về khả năng lao động và tiếp thu kiến thức... Chính điều đó có ảnh hưởng đôi khi mang tính chất quyết định, đối với trình độ và khả năng cạnh tranh xã hội của mỗi người.

Tuyệt đại đa số người hoàn toàn có khả năng cạnh tranh về mặt xã hội, họ không phải là những thiên tài sáng tạo mà chỉ là những người làm tốt công việc họ đang đảm nhận. Thông thường, xã hội không đòi hỏi ở họ điều gì lớn lao hơn là việc tận tâm thực hiện vai trò xã hội của mình. Tất nhiên, mẫu mực lý tưởng về người có khả năng cạnh tranh - đó là con người sáng tạo, đề xuất được những tư tưởng mới, những công nghệ mới, những sản phẩm mới, những tác phẩm mới.

Khi nói về những người không có khả năng cạnh tranh thì cần lưu ý rằng đó không phải chỉ là những người mất khả năng này do những nguyên nhân khách quan. (sức khỏe, tuổi tác, chấn thương....) Những người ấy cần phải trở thành đối tượng của sự chăm sóc tại nhà do nhà nước hay xã hội đài thọ với mức độ có thể đảm bảo sự tồn tại cho họ một cách thỏa đáng như điều này được áp dụng ở tất cả các nước văn minh. Song một bộ phận đáng kể của loài người không có khả năng cạnh tranh được tạo ra bởi một lớp người được gọi là những người ở bên lề xã hội tức là những người do các nguyên nhân xã hội chứ không phải do các nguyên nhân y - sinh học (những đặc điểm của việc giáo dục, những điều kiện không thuận lợi trong cuộc sống ở lứa tuổi trẻ thơ, sự khiếm khuyết trình độ học vấn chuyên nghiệp, đôi khi cả phổ thông, ảnh hưởng của môi trường chống xã hội, của tính lười biếng, của thói trác táng v.v....) không muốn tuân thủ lối sống phù hợp với những chuẩn mực xã hội và khao khát có được những phúc lợi xã hội này bằng các thủ đoạn không được xã hội tán thành (tội phạm, ăn xin v.v...). Khi số người ở bên lề xã hội này tăng quá lớn và khi điều kiện sống của họ trở nên không chịu nổi thì trong môi trường đó có thể bùng nổ cuộc nỗi loạn tự phát thậm chí đi tới mưu toan cướp chính quyền ở trong nước, hành động này thường được gọi là "cuộc cách mạng xã hội". Tầng lớp đó do không có hy vọng bằng con đường hợp pháp để nhận được những phúc lợi - xã hội theo số lượng và chất lượng mong muốn nêu trong tình huống khủng hoảng đối với xã hội đã chiếm chính quyền và dùng phương pháp trấn áp để bóc lột sức lao động của bộ phận dân chúng có khả năng cạnh tranh và dùng sức mạnh để phân phối lại một cách có lợi cho mình một phần đáng kể của cải nhà nước và thiết lập nền chuyên chế chính trị của mình. (tr.184) Như vậy là những hình thức đấu tranh của họ mang tính chất tội lỗi.

Tính chất lưu manh của tầng lớp đứng bên lề xã hội không chỉ thể hiện ở sự không có khả năng làm giầu về mặt vật chất mà còn thể hiện ở thái độ khinh miệt đối với nhân tố trí tuệ và đạo đức tinh thần ở con người, đối với những chuẩn mực đã định hình về sinh hoạt và ứng xử xã hội, đối với kiến thức và sự uyên bác.

Xét cho cùng, sự không có khả năng cạnh tranh về mặt xã hội là kết quả của sự xã hội hóa chưa đủ mức đối với một bộ phận dân chúng trong thời kỳ họ được giáo dục và học tập ở tuổi thơ ấu và niên thiếu cũng như của sự không thích ứng về mặt xã hội của họ (hay những hình thức thích ứng không phù hợp với lợi ích xã hội) ở tuổi trưởng thành (tr.185).

Toàn bộ những biện pháp tổ chức sự thích ứng và sự phục hồi xã hội như vậy được gọi là chính sách xã hội của nhà nước. Nó thường bao gồm những chương trình tăng thêm chỗ làm, tạo ra những lãnh vực làm riêng đối với những người có khả năng hạn chế, xây dựng hệ thống dạy nghề, giúp đỡ về mặt vật chất đối với những người không có khả năng lao động một cách khách quan hay tạm thời mất việc làm v.v...

Ý nghĩa phổ quát về mặt xã hội - chính trị của tất cả những biện pháp trên là để kìm hãm quá trình lưu manh hóa của những người không có khả năng cạnh tranh do những nguyên nhân xã hội, để đưa ra khỏi môi trường lưu manh hoặc bán lưu manh đối với những người chưa bị mất hẳn nhân tính và kỹ năng lao động. Điều này nằm trong hệ thống của toàn bộ biện pháp nhằm "xã hội hóa cá nhân" tức là lôi kéo con người vào mối quan hệ tương tác xã hội, kích thích và nâng cao khả năng hoạt động của họ trong những hình thức chấp nhận được đối với xã hội, huấn luyện cho họ thích nghi với những chuẩn mực của lối sống phổ biến trong một xã hội nhất định. "Về nguyên tắc, quá trình xã hội hóa cá nhân bao gồm toàn bộ biện pháp nhằm đưa con người vào hệ thống phân công lao động và vào lối sống được chấp nhận" (tr.185).

Ngoài việc xã hội hóa cá nhân ra, theo tác giả bài viết, con người còn cần phải có "những định hướng giá trị" (gồm những giá trị tinh thần như tư tưởng, tri thức, niềm tin, tình cảm giai cấp, tình cảm dân tộc...) Những định hướng giá trị này bổ sung cho lối sống của con người để tạo nên bức tranh của anh ta về thế giới (tr.185) tức là toàn bộ quan niệm và cảm giác (một phần mang tính chất duy lý và chủ yếu mang tính chất trực giác) về bản chất của cuộc sống và sự tồn tại tập thể của con người, về những quy luật và chuẩn mực của tồn tại đó, về thang giá trị của những thành tố của nó. Trên cấp độ này của những lợi ích thực dụng và những nhu cầu của cá nhân văn hóa đã trở thành tác nhân điều tiết chủ yếu đối với sự tương ứng xã hội của nó.

Văn hóa được các nhà khoa học ngày nay quan niệm như "nội dung mang tính chất ý nghĩa - giá trị, điều tiết - chuẩn mực và thông tin - biểu trưng của bất cứ một lãnh vực nào trong hoạt động có ý nghĩa xã hội của con người" (tr.185).

Chính theo quan điểm đó đã được hình thành những khái niệm "Văn hóa kinh tế", "Văn hóa chính trị", "Văn hóa lao động" v.v....

Văn hóa không được chuyển giao từ bố mẹ theo kiểu di truyền mà hình thành theo tiến trình của cuộc sống. Xã hội cần phải bồi dưỡng nó ở mỗi người, phải giúp con người làm quen với toàn bộ những chuẩn mực và những quy tắc, với "các luật chơi" của tồn tại văn hóa xã hội, phải phân định rạch ròi ranh giới, nơi địa bàn văn hóa xã hội "bình thường" kết thúc và địa bàn của những cái bên lề xã hội bắt đầu.

Theo Flier, để khắc phục những khuynh hướng nguy hại về sự xuống cấp đại trà của nhân dân, không chỉ cần sự xã hội hóa mang tính chất nghề nghiệp của con người mà còn cần phải đưa con người vào hệ thống của những chuẩn mực văn hóa được chấp nhận trong xã hội về sinh hoạt cộng đồng, cần phải khuyến khích ở con người sự mong muốn tuân thủ những chuẩn mực ấy chư không phải vi phạm chúng.

Như tác giả khẳng định, một xã hội an ninh thực sự là xã hội mà trong đó tuyệt đại đa số dân chúng biết chấp hành những chuẩn mực sinh hoạt, tức là những người có văn hóa, còn số những kẻ vi phạm không lấy gì làm lớn. Còn khi số những kẻ vi phạm vượt quá tỷ lệ cho phép thì xã hội đó khó lòng được gọi là xã hội văn hóa cũng như xã hội an ninh. Về phương diện này những xã hội truyền thống cổ xưa rõ ràng là an ninh hơn so với những xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp, nơi mà tỷ lệ dân chúng bị đẩy ra ngoài lề xã hội cao hơn nhiều và những chuẩn mực được cho phép về an ninh thấp hơn (chí ít là những chuẩn mực về an ninh cá nhân của các công dân và tài sản của họ).

Tất nhiên, trong xã hội hiện đại không thể nào đảm bảo mức độ an ninh có thể chấp nhận chỉ bằng những nỗ lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Để giải quyết nhiệm vụ này cần phải huy động toàn bộ chính sách của nhà nước, trong đó có cả chính sách văn hóa, làm nhiệm vụ phối hợp những nổ lực của tất cả các quy chế về xã hội hóa và nâng cao trình độ văn hóa của con người.

Để thực hiện nhiệm vụ đó cần có sự liên kết những nỗ lực của tất cả các ngành văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng): giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản sách, các hệ thống văn hóa: bảo tàng, thư viện, thời gian nhàn rỗi được tổ chức v.v... trong khuôn khổ một chương trình quốc gia thống nhất về sự tự phát triển văn hóa - xã hội và sự tự vệ của xã hội. Cũng cần phải có một hệ tư tưởng dân tộc mang tính chất quốc gia, và chức năng của bất cứ một hệ tư tưởng dân tộc nào là cơ sở cho sự cạnh tranh xã hội của các công dân, cho sự kết tinh những định hướng giá trị trên phạm vi toàn quốc, kể cả trong lãnh vực an ninh. Ở đây hệ tư tưởng là sự thể hiện một cách tập trung văn hóa của giới cầm quyền, hệ thống giá trị của nó. Điều đó cho phép hình thành một nguyên tắc về an ninh xã hội trên phương diện văn hóa: giới cầm quyền càng ít đầu tư kinh phí cho văn hóa và giáo dục bao nhiêu thì nó sẽ càng phải đầu tư kinh phí cho bộ máy cảnh sát, bộ máy tư pháp và hệ thống cải huấn ngày mai nhiều bấy nhiêu. (tr.187)

LÊ SƠN
(Lược thuật (theo tạp chí ONS(Nga) số 3-98)
(126/08-99)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.