Văn hóa đọc và đọc văn hóa

09:07 06/06/2018

PHẠM PHÚ PHONG    

Những trang sách này thể hiện nỗ lực nhìn và làm cho nhìn thấy Con người sẽ như thế nào và đòi hỏi điều gì, nếu ta đặt Con người vào khung cảnh của những hiện tượng bề ngoài, một cách toàn diện và triệt để. (Pierre Teilhard de Chardin).

Ảnh: internet

Hãy cầm lấy và đọc (Nxb. Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2016), là công trình sưu tập những bài báo ngắn của giáo sư tiến sĩ Huỳnh Như Phương, dày 343 trang, gồm có hai phần như tác giả đã giải bày trong Lời nói đầu rằng: “Cuốn sách gồm hai phần. Phần đầu dành cho những bài viết bàn về việc đọc sách cùng một số hiện tượng của xuất bản và tiếp nhận văn học. Phần sau là những bài viết về một số tác giả, tác phẩm văn học hiện đại mà người viết có cơ may tiếp xúc” (tr.9-10). Nội dung của hai phần này thực chất là sự trình bày quan điểm của tác giả về văn hóa đọc và đọc văn hóa.

Phần 1, cũng mang tiêu đề là Hãy cầm lấy và đọc, gồm có 27 bài (mỗi bài từ 4 đến 14 trang), hướng theo một chủ đề rất rõ, đó là văn hóa đọc. Người viết đã tập trung lý giải, phân tích mục tiêu, động lực, tác dụng của việc đọc sách, các cách/nghệ thuật đọc sách, lợi ích đem lại từ tấm gương của người đọc nhiều sách (Hãy cầm lấy và đọc, Có chăng nghệ thuật đọc sách, Một tượng đài văn hóa đọc), rồi đi vào công việc bếp núc của người viết sách, in sách, các loại sách, các loại giải thưởng dành cho sách hay, các tủ sách gia đình, các hiện tượng xuất bản, thị trường tiêu thụ và môi trường tiếp nhận tác phẩm văn học… Điều hiển nhiên trong cuộc sống, từ thuở thơ ấu còn cắp sách đến trường cho đến lúc trưởng thành, con người ai cũng ít nhiều cần đến sách, nhưng mấy ai nhận ra rằng: “Cùng với thức ăn để duy trì sự sống của cơ thể, con người còn cần thức ăn nuôi dưỡng cho tinh thần. Đọc là một cách nạp năng lượng cho sự sống tinh thần. Người tuyệt thực, không ăn uống, có thể chết. Người không đọc, không xem, không nghe cũng có thể “chết”, cái chết dần dần, êm ái, không dễ nhận ra” [1, tr.14]. Không dừng lại ở ý nghĩa vật chất của nó, người viết còn khẳng định ý nghĩa cao cả của việc tiếp nhận tác phẩm văn học, không chỉ là việc thu nạp năng lượng tinh thần, mà còn tham gia vào quá trình sáng tạo tác phẩm. Đọc là quá trình thổi hồn cho tác phẩm, là hình thức sáng tạo lại tác phẩm, nên mỗi người đọc phát hiện ra một thế giới hình tượng, một chỉnh thể nghệ thuật trong tâm tưởng của riêng mình, đó chính là tiếp nhận tác phẩm văn học với ý thức văn hóa: “Có thể nói số phận lịch sử của tác phẩm văn học phụ thuộc rất lớn vào sự tiếp nhận của người đọc. Qua sự tiếp nhận đó, các thế hệ người đọc đã thổi sức sống của thời đại mình vào tác phẩm, làm cho nó không bao giờ già cũ mà luôn luôn mới mẻ. Đọc tác phẩm là mở rộng chân trời văn bản và đưa nó vào những mối quan hệ mới với bối cảnh và tâm lý của người tiếp nhận, cả tác phẩm và người đọc đều được hưởng lợi từ mối quan hệ đó. Như vậy, đọc là khám phá, sáng tạo lại tác phẩm và cũng đồng thời là khám phá, sáng tạo chính bản thân mình” [tr.55-56].

Ngày nay, khi công nghệ nghe, nhìn phát triển cao, tất cả mọi thông tin đều dễ dàng tiếp cận qua máy tính hoặc qua chiếc điện thoại di động. Ngay cả đọc sách qua mạng cũng tiện ích hơn nhiều. Nhưng suy cho cùng, đọc mạng chỉ là nhằm để cập nhật thông tin nhanh và mới, còn đọc có sự suy ngẫm từ trang đầu đến trang cuối, có sự so sánh, đối chiếu, liên tưởng có tính chất liên văn bản… nghĩa là văn hóa đọc theo đúng nghĩa của từ này, thì đọc trên trang giấy tỏ ra tiện ích hơn. Tôi nhớ, cách đây mấy năm, trên sóng truyền hình trong chương trình Người đương thời, nhà báo Tạ Bích Loan có gặp gỡ trao đổi với tổng giám đốc của một nhà máy giấy, xen kẻ với câu chuyện trao đổi, trên màn hình xuất hiện một thống kê nhằm khẳng định nước nào dùng giấy để phục vụ văn hóa đọc cao nhất, nước đó là nước văn minh nhất. Số lượng giấy tiêu tốn cho văn hóa đọc, tính bình quân trên mỗi đầu người trong một năm, nước đứng đầu là Mỹ 440kg, xếp thứ nhì là Nhật 220kg,… nước ta mỗi năm chỉ có 10kg! Những nước khoa học công nghệ phát triển đến đỉnh cao và trở thành hàng đầu thế giới, mọi thứ hầu như đã được số hóa, cứ tưởng họ hoàn toàn lệ thuộc vào công nghệ, nhưng hóa ra, họ vẫn cần đến sách, nhất là tác phẩm văn chương, bởi lẽ, hồn của văn nằm ép mình trên từng trang sách. Chỉ là động tác cơ học thôi, nhưng chữ được viết nên bởi tay người. Chữ qua tay ai, đều mang hơi ấm tâm hồn người đó. Chính vì thế, khi xác định mục tiêu của hành động đọc, có liên quan đến chức năng của văn chương, Huỳnh Như Phương cũng đã nhấn mạnh rằng: “Đọc văn là một cách thế để con người mở rộng chiều kích tồn tại của mình, sống thêm nhiều cuộc đời khác, thông qua những mối tương giao tinh thần với nhân loại. Đọc tác phẩm là mở tâm hồn mình ra, là nỗ lực khắc phục nỗi cô đơn, là bộc lộ nhu cầu được giao tiếp, trao đổi, giãi bày và thông cảm với tha nhân. Văn học là nhịp cầu cho sự giao lưu đó, là cánh cửa của đối thoại. Vì vậy, về bản chất, văn học đích thực mâu thuẫn với sự phong bế, đóng kín và những rào cản” [tr.54]. Ở tầm khái quát rộng lớn hơn có ý nghĩa nhân loại, trong thời gian lịch sử và không gian địa lý, đặt trong mối quan hệ giao lưu với các dân tộc, các nền văn hóa trên thế giới: “Có thể nói, sách văn học chính là cánh cửa của đối thoại, nhịp cầu của sự giao lưu văn hóa. Đọc văn học là hướng tâm hồn mình về những nền văn hóa khác, là đánh thức khát vọng đồng cảm với nỗi thống khổ và niềm hạnh phúc của nhân loại. Sách văn học mở rộng sự giao tiếp không chỉ về mặt thời gian - giữa các thế hệ, các thời đại khác nhau, mà còn về mặt không gian - giữa các dân tộc và các nền văn hóa xa cách nhau” [tr.73-74]. Đọc cũng là đi tìm hồn của văn bản. Sách có hồn sách, chữ có hồn của chữ. Sách gắn liền với chữ. Theo các nhà cổ học, chữ xuất hiện trong đời sống con người khoảng từ thiên niên kỷ thứ IX đến thiên niên kỷ thứ IV trước Công nguyên. Ở nước ta, có ba cuộc “cách mạng” về chữ viết, trong đó có hai lần, xét về mục tiêu ban đầu, gắn liền với sự phát triển của tôn giáo: chữ Hán du nhập vào Việt Nam từ thời Triệu Đà và sau đó trở thành công cụ chép kinh của các nhà sư, và sau này khi các nhà truyền giáo phương Tây sáng tạo ra chữ quốc ngữ cũng gắn với nhu cầu truyền giáo của các cha cố. Ở một phương diện nào đó, các trí thức sáng tạo ra chữ Nôm, từ trong ý thức đã nhằm mục đích thoát Trung, mang đầy hào khí của lòng tự tôn dân tộc. Hồn dân tộc đước đánh thức trong từng bước đi của đất nước. Chữ thông qua sách là phương tiện dùng để cố định và lưu truyền cho hậu thế dưới nhiều dạng vật chất, nhưng tiện ích nhất lâu nay vẫn là trang giấy. Hàng nghìn năm nay, sách đã gắn bó với người và góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Và, về căn bản, “sách không đơn thuần là một tập hợp những trang giấy, hay ngược thời gian, những thanh tre, tấm lá cọ, những phiến đất sét nung như gạch ngói ta vẫn dùng… sách có hồn, hồn của sách chính là hồn nhân loại” [2, tr.30].

Là người quê gốc Quảng Ngãi, nhưng gần nửa thế kỷ sống và làm việc ở Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, Huỳnh Như Phương đã trở thành công dân “thứ thiệt” của thành phố, bởi cách anh phân tích, lý giải các vấn đề đều xuất phát từ các sự kiện/hiện tượng của thành phố, đều lấy thành phố làm trung tâm (Người Sài Gòn và tình yêu sách, Sách ở miền Nam trước 1975 được tái bản, Truyện ngắn lên hương, Những nhà xuất bản đoản mệnh,…). Điều quan trọng hơn, là lúc nào anh cũng nhìn mọi việc bằng con mắt của người thành phố, bằng tâm thức sáng tạo của người thành phố, dường như tất cả mọi thứ, từ ánh nắng ban mai, âm thanh xe cộ, tiếng chim hót, tiếng rao hàng, đến những dịp hội hè, giao lưu văn hóa, ngày hội thi sách, tủ sách gia đình… đều phát ra từ hơi thở và nhịp đập của trái tim tác giả, về một thành phố văn hóa sôi động, một thị trường tiêu thụ tất cả các loại sách, từ sách văn học đến sách giáo khoa, sách dạy kỹ năng sống, sách mới, sách cũ, tuyển tập, toàn tập… có thể nói là cả sản xuất và tiêu thụ đều vào loại bậc nhất nước ta. Là nhà giáo, nhà văn, nhà lý luận phê bình và hoạt động văn hóa, đã từng sống trong vùng tạm bị chiếm của chế độ cũ, với cái nhìn trung thực, thẳng thắn, tạo cho anh lối viết điềm đạm với đầy đủ số liệu, dữ liệu của văn chương thông tấn, xen lẫn với lối trần thuật mang tính chất hồi ký (Đưa sách về vùng xa, Sách ơi, nhiều lỗi quá…), đặc biệt là những phát hiện thú vị và có giá trị đối với đời sống văn học, về các gia đình có anh em ruột đều là người hoạt động văn chương nghệ thuật như ba anh em Phạm Văn Ký, Phạm Hổ và Phạm Thế Mỹ, hai anh em Nhật Tiến, Nhật Tuấn, rồi Chinh Văn, Chinh Ba hoặc Võ Phiến (Đoàn Thế Nhơn) và Lê Vĩnh Hòa (Đoàn Thế Hối). Điều đáng lưu ý là sáng tác của họ ra đời trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, ý thức hệ chính trị khác nhau, thậm chí trên hai chiến tuyến đối lập nhau, nay đã bắt đầu có dấu hiệu xích gần lại với nhau, trong khát vọng chung của cả đất nước là hòa hợp hòa giải dân tộc, thông qua Tác phẩm văn chương như chiếc vé trở về: “Khi rời đất nước ra đi, nhiều nhà văn Sài Gòn chỉ cầm trên tay chiếc vé một chiều. Không phải vé khứ hồi. Nhưng tự trong thâm tâm, người Việt đi xa nào không mong có một chiếc vé trở về, về với nơi chôn nhau cắt rốn, với anh em ruột thịt, với bà con, đồng bào (…), tác phẩm văn chương mang nặng tình tự dân tộc của họ thực sự là những chiếc vé trở về, là nhịp cầu nối lại những chia xa, là thuốc chữa những vết thương còn rỉ máu. Chính những chiếc vé đó đã ghi rõ địa chỉ của ga cuối: Quê nhà, Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng, Đường về nước, Quê hương tôi… [tr.140]. Là một người viết báo, phản ánh và cổ vũ cho những hoạt động xuất bản, in ấn, giới thiệu và đọc sách, trong đó có việc đề xuất giải pháp để Hướng tới một thị trường xuất bản lành mạnh. Là nhà văn, nhà khoa học, anh khẳng định ý nghĩa khách quan và tích cực ủng hộ để Trả lại vị trí xứng đáng cho những tác phẩm giá trị trong lịch sử văn học đã từng bị vùi lấp bởi những thiên kiến nằm bên ngoài văn học. Nhiều vấn đề được tác giả nêu ra không còn vấn đề của một nhóm người, một giới, một tầng lớp người trong xã hội, không còn nằm trong phạm vi của thành phố, của cái “miền Nam trước 1975” của anh, mà đã trở thành vấn đề buộc cả nước hoặc cả thế giới phải quan tâm như Khi nhà giáo viết sách, Sách và giáo dục, Sách cho thiếu nhi, Sách - nhịp cầu giao lưu văn hóa, Mùa xuân, sinh thái và văn chương…

Phần 2, Sách và người gồm có 34 bài phê bình về tác giả và tác phẩm, thậm chí đôi khi chỉ Từ một bài báo xuân của Đoàn Giỏi, Huỳnh Như Phương đã tạo dựng thành một bài phê bình tác phẩm Nhớ cố hương của Đoàn Giỏi rất thú vị và làm giàu có thêm cho giọng điệu phê bình điềm đạm mà đặc sắc. Tất nhiên, không phải bao giờ cũng phải đọc sách để viết phê bình mới là văn hóa, nhưng có lẽ trước tiên hoạt động đọc của người làm công việc phê bình là hành động văn hóa, hơn nữa, đối tượng lại là sản phẩm văn hóa, nên đọc để phê bình chẳng khác nào đọc văn hóa. Lại một lần nữa, tác giả dù vô tình hay cố ý, đã chứng minh mình là nhà phê bình của một vùng đất, một thành phố, bởi vì các tác giả, tác phẩm trở thành đối tượng người viết cảm thụ và rút ra hiệu ứng thẩm mỹ đều phần lớn ở thành phố Hồ Chí Minh.

Về phần sách, Huỳnh Như Phương giới thiệu các tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau, như tiểu thuyết, truyện ngắn, hồi ký, tản văn, tạp văn của các tác giả như Lê Văn Thảo, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Hồ, Trần Kim Trắc, Nguyễn Nhật Ánh, Phan Triều Hải, Trần Nhã Thụy, Lê Văn Nghĩa, Việt Linh, Huỳnh Dũng Nhân, nhà văn, nhà giáo Việt kiều Cao Huy Thuần… Người viết phê bình thường chọn lựa tác giả, tác phẩm mà mình yêu thích, trong đó thông thường vẫn là những tác giả thời danh, tên tuổi đã trở nên quen thuộc đối với bạn đọc. Huỳnh Như Phương còn quan tâm đến những tác giả trẻ hoặc những tên tuổi mới xuất hiện còn lạ lẫm đối với người đọc (tập hợp trong tập sách này có đến 9 lời tựa, lời bạt anh viết cho các tập sách), nhưng tác phẩm của họ đã sớm tạo nên ấn tượng mạnh mẻ đối với người đọc như hồi ký Cùng anh đi suốt cuộc đời của bà Trương Thị Sáu là vợ của nhà yêu nước Nguyễn An Ninh và con gái là Nguyễn Thị Minh, hồi ký Nhớ và quên của hai vợ chồng Phạm Hồng Sơn và Đặng Anh Đào, bút ký Đi… và tìm trong đất của nhà khảo cổ Nguyễn Thị Hậu, tập văn thông tấn Bật một que diêm của nhà báo Lưu Đình Triều, tập thơ Giọt sương lạc loài của Trương Quang, một chuyên gia ngành quản trị hành chính, sống và làm việc tại Hà Lan, tập truyện ngắn Một phút tự do của nữ tác giả Việt kiều Elena Pucillo Trương… Nhiều nhất là sách nghiên cứu lý luận phê bình như Tự điển văn học bộ mới (nhiều tác giả), Tuyển tập Hoàng Như Mai, Từ bục giảng đến văn đàn (Trần Hữu Tá), Cảm nhận và suy tưởng (Hoàng Thiệu Khang), Cảm nhận mỹ học âm nhạc (Thế Bảo), Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Marx phương Tây (Phương Lựu), Mênh mông chật chội (Lại Nguyên Ân), Trần Tiêu - nhà văn độc đáo của Tự Lực văn đoàn (Vu Gia), Ấn tượng văn chương phương Nam (Nguyễn Mẫn)… Không dừng lại ở văn chương, tác giả còn “lấn sân” sang các lĩnh vực khác như Trò chuyện triết học của Bùi Văn Sơn Nam hoặc Tìm về dân tộc sách chính luận của Lý Chánh Trung. Có một trường hợp cần lưu ý là tập chân dung văn học Những gương mặt - những câu thơ của nhà thơ Ý Nhi, tuy người viết có ý đặt nó trong lĩnh vực sáng tác, nhưng thực ra nó không dừng lại ở tiểu loại ký chân dung, mà từng diện mạo các tác giả sừng sững như những tượng đài, đã trở thành những chân dung văn nghệ, có thể xếp vào lĩnh vực nghiên cứu phê bình, hoặc chí ít cũng nằm trong vùng giao thoa giữa hai lĩnh vực. Ngay cả khi rút ra các phẩm chất ít nhiều có tính chất đối lập trong các nhà thơ nữ như Phan Thị Thanh Nhàn “vừa duyên dáng vừa vụng về, vừa sâu sắc vừa nông nổi, vừa chi chút vừa hào phóng”; Phạm Thị Ngọc Liên “vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ, vừa cả tin vừa tự tín, vừa mê đắm vừa sáng suốt, vừa hồn nhiên vừa cay đắng”… [309-310], là cách nói thường gặp trong phê bình văn học, mà có lẽ người mở đầu là Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam thuở nào.

Sách do người sáng tạo ra, nên phần người đã ít nhiều được đề cập đến trong những bài viết về sách, mà biểu hiện rõ nhất có sự giao thoa giữa hai yếu tố này là bài Ba cuốn sách, một tấm lòng viết về ba công trình nghiên cứu của Hà Minh Đức về ba nhà thơ mới Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, ra đời trong cùng một thời điểm (2009, 2010). Chẳng hạn, mấy câu sau đây thể hiện rõ sự hòa quyện giữa sách và người: “Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, Hà Minh Đức hãy còn là nhà phê bình trẻ. Nhưng nhờ năng lực nghiên cứu, cùng với thái độ hòa nhã, điềm đạm trong giao tiếp, ông có nhiều dịp làm việc chung với các nhà thơ lớn. Tiếp cận với tác phẩm qua bản thảo nguyên gốc của nó, ông nắm được đặc trưng của lao động sáng tạo và ngôn từ nghệ thuật của nhà thơ. Với cuốn sổ tay bên mình, ông cẩn trọng ghi lại những ý kiến thẳng thắn, sắc sảo mà họ bày tỏ trong việc đánh giá đồng nghiệp cũng như tự đánh giá bản thân mình” [tr.208-209]. Bên cạnh đó, còn có những phác thảo chân thực và cảm động của Huỳnh Như Phương trong tập sách là chân dung các tác giả như Võ Hồng, Trang Thế Hy, Lê Hồng Sâm, Hoàng Như Mai… Vào đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, tôi cũng đã có thời gian hàng tháng trời làm việc với nhà văn tài danh và đáng kính Võ Hồng, nên rất tâm đắc và khâm phục Võ Hồng trong trí nhớ của Huỳnh Như Phương với nét bút tài hoa và lịch lãm: “Lần đầu tiên gặp ông mà tôi cảm thấy như mình đã quen từ lâu cái dáng người cao ráo mảnh mai, đôi mắt tinh anh giấu sau cặp kiếng lão, nụ cười hóm hỉnh và giọng nói Phú Yên thuần chất đó. Đúng như trong hình dung của tôi khi đọc văn ông và xem tấm ảnh ông đăng trên bìa tạp chí Văn, ông là một nhà giáo thuần thành và một nhà văn đôn hậu” [tr.174]. Xúc động hơn, anh buồn bã tiễn đưa Trang Thế Hy về nơi an nghĩ cuối cùng, bỗng hiện lên cái ý nghĩ về cuộc sống lặng lẽ, hiu hắt của nhà văn và nỗi nhớ/buồn phố thị: “Những năm tháng cuối đời, trong căn nhà bên một con lộ nhỏ ở ngõ vào thành phố Bến Tre, đêm đêm Trang Thế Hy nghe tiếng thời gian qua những tàu lá dừa khô rụng ngoài vườn. Chắc có lúc ông nhớ đến tiếng rền u u đơn điệu gây buồn ngủ của nhà đèn Chợ Quán, tiếng chuông xe điện leng keng trên đại lộ Galliéni, tiếng cười nói ồn ào trước chung cư Nam Kỳ Khởi Nghĩa nơi cái thành phố đã mở cánh cửa văn chương cho ông nhìn ra thế giới. Nhưng thế giới của ông bây giờ thu lại trong những suy tưởng miên man về phận người và đời văn: Đêm nay mực chảy thành thơ/ Giữa tiếng cười man dại/ Tôi ngồi một mình trong bóng tối/ Thách tất cả gông cùm trên thế giới/ Làm sao xiềng đôi cánh của tình thương/ Đêm qua Trang Thế Hy ra đi trong tiếng lá dừa rơi…” [tr.183].

Tôi bỗng nhận ra rằng, tuy là người làm lý luận phê bình, nhưng văn chương của Huỳnh Như phường cùng “tạng” với kiểu văn chương của Thạch Lam, Võ Hồng, Trang Thế Hy, Trần Thùy Mai… Cái kiểu người không nghĩ xấu về về ai bao giờ, nên văn chương cũng khó mà tả hay về cái ác, chỉ một giọng điệu buồn thương man mác, nhẹ như sương khói, đẹp mà buồn. Anh không phải là kiểu nhà phê bình văn học lớn tiếng với nhiều kiểu nhân danh hoặc chuyên vạch lá tìm sâu. Hãy xem nhà phê bình tỏ ra thiếu tin tưởng khi nhận ra trong một công trình nghiên cứu phê bình về Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Marx phương Tây lại sử dụng nguồn tài liệu chủ yếu từ phương Đông, không được chú thích thận trọng: “Viết về những trường phái lý luận phương Tây, nhưng nguồn tài liệu chủ yếu mà tác giả sử dụng là của Trung Quốc, với một số trích dẫn không được chú thích đầy đủ, cũng có thể khiến cho những bạn đọc trong giới chuyên môn băn khoăn” [tr.199]. Hoặc khi chê nhà văn Lê Văn Thảo miêu tả về tình yêu quá khô khan và vụng về, anh chuyển giao điều đó trở thành trách nhiệm của độc giả, còn anh chỉ là người đặt câu hỏi mà thôi: “Có điều đáng tiếc là nhà văn kể chuyện tình yêu hiền quá. Từ hồi nào tới giờ, kể cả khi viết Chuyện nhỏ tình yêu, hầu như ông không tính rằng tình yêu tất yếu đi liền với tình dục. Suốt cả cuốn tiểu thuyết này, quan hệ của Tân với Quyên và Thắm, của Khiêm với An là những tình yêu thuần khiết, họ không hề bày tỏ một chút khát khao, không hề trao cho nhau một nụ hôn ngay khi có cơ hội bên nhau, riêng nhau, may lắm là cái đụng nhẹ vô đôi vai rất mềm của cô gái. Đó là ưu điểm hay là nhược điểm của nhà văn?” [tr.260-261]. Nhà phê bình ơi, riêng tôi vẫn nhận thấy rằng, kiểu phê bình nhược điểm của “ông” còn “hiền” hơn cả việc miêu tả tình yêu của nhà văn Lê Văn Thảo! Hơn nữa, trong tập sách này, tôi tìm mãi trong cả 61 bài viết, rất hiếm khi tìm thấy những lời chê trách. Tuy tác giả có rào đón một cách khiêm tốn rằng, “những bài viết trong tập sách này thường có tính chất giới thiệu, điểm sách” nhưng đã đem lại hiệu ứng thẩm mỹ sâu sắc, thể hiện phong cách và bản lĩnh của nhà phê bình, nhất là khả năng đọc và cảm thụ tác phẩm vừa rộng vừa sâu, thể hiện sức kiến dồi dào, nếu không muốn nói là uyên bác. Điều đặc biệt là, đọc Huỳnh Như Phương - hay theo dõi sự “đọc” của anh, ta dễ nhận ra một không khí văn hóa được tạo nên bởi một nhân cách trí thức.

Không chỉ có người sáng tác, mà ngay cả những người làm nghiên cứu lý luận, phê bình - một công việc mà theo Huỳnh Như Phương “là rất nhàm chán đối với người sáng tác” [tr.309], xét cho cùng, mỗi người đều có một cái nhìn ấm áp đối với con người và cuộc sống, để từ đó tìm một lối riêng, một thứ ánh sáng lung linh mà chỉ một mình mình theo đuổi để tiếp cận đời sống tâm hồn con người, ở một tầm cao mang ý nghĩa văn hóa nhân văn. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Teilhard de Chardin, trong Hiện tượng con người, đã dẫn nhập bắt đầu từ cái nhìn làm cho thấy con người: “Nhìn. Chúng ta có thể nói rằng tất cả Sự Sống là việc đó - nếu không phải sau chót thì ít nhất căn bản cũng là việc đó. Tồn tại hơn nữa tức là thống nhất hơn nữa - đó chính là lời tóm tắt và thậm chí là kết luận của cuốn sách này. Nhưng, chúng ta hãy nhấn mạnh lại rằng tính thống nhất chỉ tăng lên nếu được hỗ trợ bởi sự phát triển của ý thức, hay chính là của sự nhìn” [3, tr.23]. Chắc chắn đây không phải là tác phẩm cuối cùng của Huỳnh Như Phương. Người đọc còn mong đợi ở anh hiều trang viết tham gia vào đời sống văn học sôi động, bên cạnh các giáo trình, các công trình nghiên cứu trọng điểm của quốc gia, mà anh đã và đang thực hiện. Hơn ai hết, anh phải ý thức về điều đó, về trách nhiệm của một trí thức trong quá trình phát triển của đất nước. Khi viết về tác phẩm Tìm về dân tộc (Nxb. Trình Bày, 1967) của Lý Chánh Trung xuất bản công khai ở Sài Gòn (Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn tái bản lần thứ hai năm 1973, Nxb. Trẻ tp Hồ Chí Minh tái bản lần thứ ba năm 1990), Huỳnh Như Phương tôn vinh bản lĩnh về Sự chọn lựa của người trí thức, tôi xin mượn câu kết trong bài viết của anh làm câu kết cho bài viết của mình: “Ở một thời điểm mà đất nước đứng trước yêu cầu cấp bách phải vừa tự đổi mới để hòa nhập vào thế giới hiện đại, vừa phải giữ gìn bản sắc của chính mình, thì việc suy nghĩ về truyền thống dân tộc, về môi trường văn hóa mà nhân dân đang hít thở, về những bài học của lịch sử và những nhiệm vụ của ngày hôm nay, đó hẳn là một công việc mà những người trí thức phải gánh trên vai của mình và không bao giờ có thể xem như đã hoàn tất” [tr.189].

P.P.P
(TCSH351/05-2018)


---------------------
[1] Những trích dẫn đánh số trang, là trích từ tác phẩm Hãy cầm lấy và đọc của Huỳnh Như Phương.
[2] Phan Quang (2016), “Người bạn muôn đời” tạp chí Hồn Việt, số 110, tháng 12 năm 2016.
[3] Teilhard de Chardin (2014), Hiện tượng con người, bản dịch của Đặng Xuân Thảo, Nxb. Tri Thức.  





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.