JOSEPH HILLIS MILLER
Không phải ngẫu nhiên khi cho rằng quan niệm về cái kết ở trong truyện rất khó để xác định rõ ràng, cho dù là “về mặt lý thuyết”, hay với một cuốn tiểu thuyết nhất định, hoặc với các tiểu thuyết ở một thời kỳ nhất định. Quan niệm về cái kết ở trong truyện vốn dĩ là “không thể giải quyết được.” (undecidable).
J.H.Miller - Ảnh: internet
Thế bế tắc của hồi kết ở trong truyện đã có mặt ở trong các thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất để mô tả cái kết. Một ví dụ, qua việc quay trở lại với Nghệ thuật thi ca (Poetics) của Aristotle, là truyền thống sử dụng hình ảnh thắt nút (knotted) và mở nút (unknotted) để mô tả mạch truyện. Aristotle nhận định, “Mọi vở kịch đều có liên quan đến (1) Sự thắt rối [Complication] và (2) Sự gỡ rối [Unravelling], hay Đoạn kết [Dénouement] (λύσιζ). Các tình tiết nằm bên ngoài vở kịch, và thường chỉ một số tình tiết ở trong nó, tạo thành Sự thắt rối; phần còn lại của vở kịch cấu thành nên Sự gỡ rối.”(1) Nơi mà sự thắt rối gấp lại hoặc cùng buộc lại kết thúc và sự gỡ nút thắt bắt đầu, Aristotle xem khả thể của một câu chuyện như thế đang ở giai đoạn gỡ rối hay đoạn kết, ở đó “bước ngoặt” (turning point) từ thắt nút sang mở nút sẽ thích hợp với khởi đầu của câu chuyện và tất cả sự thắt rối sẽ có trước hành động xét như tiền giả định của nó. “Cụ thể hơn,” ông nhận định, “sự thắt rối để chỉ tất cả mọi thứ từ đầu câu chuyện cho đến thời điểm quan trọng, trong một loạt các tình tiết gây cấn, nhờ đó có sự thay đổi diễn ra; sự gỡ rối để chỉ mọi thứ từ lúc bắt đầu diễn ra sự thay đổi đến kết thúc vở kịch. Ví dụ, trong Lynceus của Theodectes, sự thắt rối bao chứa các tình tiết trước khi dựng kịch, đứa trẻ Abas bị bắt giữ, và sau đó là bố mẹ của nó; sự gỡ rối kéo dài từ tình tiết giết người đến kết thúc truyện.”(2) Thông qua một nghịch lý kỳ lạ nhưng hoàn toàn cần thiết, vấn đề kết thúc truyện ở đây trở thành vấn đề của sự khởi đầu. Toàn bộ vở kịch đang kết thúc và bắt đầu cùng một lúc, một sự khởi đầu/kết thúc luôn phải tiền giả định một cái gì đó bên ngoài chính nó, một cái gì đó đến trước hoặc đến sau, để bắt đầu hoặc kết thúc, để bắt đầu việc/sự kết thúc. Khoảnh khắc đảo ngược kia, khi buộc nút trở thành gỡ nút, không bao giờ có thể được thể hiện ra hoặc được xác định bởi vì hai sự vận động giống nhau một cách chặt chẽ, như thuật ngữ đối lập có tính hai mặt thể hiện - “bản lề” (articulate), nó có nghĩa là đồng thời ghép lại và tách rời. Sự buộc/cởi, tức bước ngoặt, được khuếch tán qua toàn bộ hành động. Bất kỳ tình huống nào người xem tập trung vào đều là một bước ngoặt vừa buộc vừa cởi. Đây là một cách khác để nói rằng không có truyện kể nào có thể chỉ ra phần đầu hoặc phần cuối của nó được. Nó luôn luôn bắt đầu và kết thúc ở vòng xoắn cốt truyện (in media res), cái tiền giả định như một tương lai có trước một phần của chính nó ở bên ngoài chính nó.
Những nan đề về cái kết truyện làm cơ sở cho những sự bất đồng giữa các nhà phê bình về việc liệu một cuốn tiểu thuyết nhất định hay các tiểu thuyết của một thời kỳ nhất định có đóng lại hay có “kết thúc mở”. Những câu đố này cũng hiện diện theo cách mà một cuốn tiểu thuyết nhất định có cái kết đóng một cách rõ ràng có thể, dường như, luôn luôn được mở trở lại. Cách giải quyết dứt khoát của Virginia Woolf đối với nhân vật Dalloways trong The Voyage Out được mở trở lại ngay sau đó để tạo ra Bà Dalloway. Anthony Trollope, một tiểu thuyết gia của cái kết, luôn luôn xem tiểu thuyết phải có một cái kết, trong loạt tiểu thuyết kể về một quận tưởng tượng có tên Barset và loạt tiểu thuyết lấy chủ đề về nghị viện giới thiệu lại các nhân vật tiểu thuyết sau này như thể đời sống của họ dường như đã hoàn toàn khép lại trong các tiểu thuyết trước đó. Sự đóng lại ngỡ như thành công tột bậc ở Cranford của Elizabeth Gaskell đã khiến sự thống nhất của nó lặng lẽ tan vỡ 10 sau đó bởi việc xuất bản câu chuyện tiếp nối, “The Cageat Cranford.” “The Cageat Cranford” thực sự là một câu chuyện nói lên sự bất khả thi của việc đóng lại kết truyện, của “việc giam giữ.”
“Câu chuyện của chúng tôi đã xong,” Trollopeat nói ở phần đầu thuộc chương cuối của Viên cai ngục (The Warden), “giờ chúng tôi chỉ việc thu thập các chủ đề nhỏ rải rác của câu chuyện chúng tôi rồi buộc chúng vào một nút thắt.”(3) Mặt khác, cái kết của một truyện kể hoặc hành động kịch, ngày nay, vẫn được xem như là cách giải quyết hoặc sự gỡ rối của nó: tất nhiên, đó là sự gỡ nút của nó. Sự thịnh hành của truyện kể theo sự phức tạp kiểu Byzantine trong thế kỷ XVII của Heliodorus, Aetheopica, là niềm vui của một sự gỡ nút, niềm vui bất chợt được cảm nhận bởi một người bị vướng mắc vào mê cung của danh tính nhầm lẫn và mạch truyện rắc rối không thể gỡ ra được khi anh ta đột nhiên thoát hoàn toàn ra ngoài ánh sáng ban ngày. Nó giống như một sự phóng thích mãnh liệt được cảm nhận khi ta nhìn thấy tình tiết của một trò đùa, hoặc niềm vui khi chứng kiến lời giải thích cuối cùng (érclairssement), “anh ta đã làm điều đó” ở cuối câu chuyện trinh thám. Tuy nhiên, niềm vui ngược lại, không kém phần mãnh liệt, đó là sự khép lại, sự gấp lại gọn gàng của các chất liệu truyện kể phức tạp theo một cách giải quyết duy nhất để mọi câu chuyện được nhét lại vào trong. Giải quyết, giải tán, phân rã - tại sao sự mâu thuẫn để trống này lại có ở trong các hình ảnh của chúng ta về cái kết ở trong truyện? Tại sao chúng ta không thể mô tả rõ ràng khoảnh khắc xuất hiện đầy đủ của vòng tuần hoàn trong một tiết lộ cuối cùng ở điểm cuối mà toàn bộ câu chuyện đang vận động từ đó giúp cố định các nhân vật vào trong một mối quan hệ mới, tức số phận cuối cùng của chúng/họ? Việc buộc/cởi này sẽ mang lại ý nghĩa về một cái kết, tạo ra sự thống nhất phóng chiếu lên toàn bộ mạch truyện. Điều phổ biến nhất ở cái kết là hôn nhân hoặc cái chết của các nhân vật. Tuy nhiên, cái kết này dường như vừa đồng thời được coi là một sự trói buộc, một nút thắt gọn gàng chẳng để lại những sợi chỉ lỏng lẻo nào cả, không có nhân vật nào mà không được giải thích, vừa là một sự cởi trói, như cách kết thúc một câu chuyện rối rắm để các nhân vật có thể được nhìn thấy rõ ràng, tỏa sáng cạnh nhau, tất cả bí ẩn hoặc phức tạp được tiết lộ.
Nan đề của kết thúc truyện phát sinh từ thực tế là nó không thể biết được liệu một câu chuyện nhất định có hoàn tất hay không. Nếu kết truyện được coi là sự thắt lại vào một nút thắt cẩn thận, thì nút thắt này luôn có thể được gỡ lại một lần nữa bởi người kể chuyện hoặc bởi các sự kiện tiếp theo, tức được gỡ rối hoặc được giải thích lại. Nếu kết truyện được coi là sự gỡ rối, làm thẳng các sợi chỉ, thì hành động này rõ ràng không để lại một sợi chỉ lỏng lẻo nào cả mà là vô số sợi chỉ, cạnh nhau, tất cả đều có khả năng được thắt nút lại một lần nữa. Nếu hôn nhân, sự thắt nút của mối quan hệ hôn nhân, là sự chấm dứt của câu chuyện, thì đó cũng là khởi đầu của một chu kỳ khác trong chuỗi bất tận của các thế hệ. “Mọi giới hạn là một khởi đầu cũng như là một kết thúc”, George Eliot nói trong Cuộc trung chuyển.(4) Cái chết, dường như là một kết thúc dứt khoát, luôn để lại phía sau một số người còn sống sót đang ngơ ngác hoặc đang hoang mang, người đọc dòng chữ trên bia mộ, như trong “The Boy of Winander” của Wordsworth, hoặc trong Đồi gió hú của Emily Bronte, hoặc trong suy ngẫm âm thầm về một lá cờ đen xa xôi, dấu hiệu hành quyết của Tess, bởi Angel Clare và Liza-Lu ở phần cuối của Tess of the d’Urbervilles. Cái chết là cái kết bí ẩn nhất, là kết thúc mở-đóng nhất trong tất cả cái kết. Đó là sự kịch tính hay nhất của cách kết thúc truyện, theo nghĩa của một telos (mục đích) rõ ràng, quy luật hoặc nền tảng của toàn bộ câu chuyện, luôn luôn lùi xa, trốn thoát, tan biến. Điều tốt nhất có thể có, ở nhà văn hoặc độc giả, là điều mà Frank Kermode, qua cách nói đáng ngưỡng mộ của ông, gọi là “ý nghĩa của cái kết truyện.”
Thắt nút, gỡ nút - chúng ta không có cách nào để xác quyết giữa những hình ảnh này. Tiểu thuyết gia và nhà phê bình tiểu thuyết cần cả hai và cần cả hai cùng một lúc, trong một dao động không thể xác định. Chẳng hạn, sau hình ảnh gọn gàng của mình ở Viên cai ngục, Trollope tiếp tục mở ra câu chuyện của ông một lần nữa trong hình ảnh của cái kết truyện bất xác định và có tính suy đoán để lại cho ngời đọc tự do tưởng tượng: “chúng ta không phải giáp mặt với nhiều nhân vật, hoặc với các sự kiện gây xôn xao nào cả, và đó không phải là thông lệ thường, chúng ta có thể để nó trôi theo trí tưởng tượng của tất cả mọi người liên quan đến việc tiếp nhận cách làm thế nào các câu chuyện tại quận tưởng tượng Barset đã tự sắp xếp chính chúng.”(5) Trollope vừa buộc tiểu thuyết của mình một cách gọn gàng và gỡ nó ra khỏi trí tưởng tượng tự do của người đọc. Ông để nó mở ngay cả với trí tưởng tượng của riêng mình, để toàn bộ chuỗi tiểu thuyết kể về quận Barset có thể tiếp tục trong nhiều năm. Ví dụ, câu chuyện có cái kết đóng rõ ràng về Eleanor Bold, được mở lại một lần nữa với cái chết của John Bold và Arabin tán tỉnh cô trong BarchesterTowers.
Tất cả vấn đề của việc kết thúc truyện này được buộc thắt gọn gàng trong một từ đối lập hai mặt khác: mối rối (ravel). Bản thân từ mối rối (ravel) đã có nghĩa là gỡ rối (unravel). Tiền tố “un” không thêm gì vào đó nữa cả. Để thắt nút một câu chuyện hoặc để gỡ nút thắt nó là một. Tuy nhiên, từ này không thể được hiểu như một sự đóng lại bằng cách phóng đại một loạt những cái đối lập nhân đôi đang cố gắng để tạo ra phần mở đầu ngay từ đầu thành sự đóng lại: rối, gỡ rối, không-gỡ rối, không-không gỡ rối, v.v. Theo cách tương tự, không có tiểu thuyết nào có thể được hoàn tất một cách dứt khoát, hoặc vấn đề về cái kết truyện không thể được hoàn tất một cách dứt khoát. Nỗ lực đặc tả hư cấu/truyện của một thời kỳ nhất định bằng cam kết đóng lại hoặc kết thúc mở bị chặn ngay từ đầu bởi sự bất khả thi của việc chứng minh liệu một câu chuyện nhất định là đóng hay là mở. Phân tích (analysis) về các kết truyện luôn dẫn đến việc làm tê liệt (paralysis) tính bất khả quyết định này.
Phạm Tấn Xuân Cao
(Dịch từ The Problematic of Ending in Narrative, Nineteenth-Century Fiction, Vol. 33, No. 1, Special Issue: Narrative Endings (Jun.,1978), pp. 3-7)
(TCSH367/09-2019)
------------
(1) Aristotle bàn về nghệ thuật thi ca, Lane Cooper dịch (Ithaca, N.Y.: Cornell Univ.Press, 1947), pp. 58-59. λύσιζ là gốc từ của những từ tiếng Anh như “phân tích” và “làm tê liệt.”
(2) Tlđd, tr.59.
(3) Viên cai ngục (The Warden), OxfordClassicsedition (London: Oxford Univ. Press,1963), tr.259.
(4) Cuộc trung chuyển (Middteinarch), Cabinet Edition (Edinburgh and London: Blackwood, n.d.),“Finale,” III, 455.
(5) Viên cai ngục, tr.259.
(Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.
ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)
HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…
HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết) (tiếp Sông Hương số 248)
Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .
Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.
Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao” (Martin Heidegger)
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.
LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.
Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.