Văn Công Hùng với hoa tường vi trong mưa

15:21 04/02/2009
NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

"Đêm qua chớp bể mưa nguồn - Hỏi người tri kỷ..." thì ra là thế, những sợi tơ trời dân gian ấy vẫn giăng mắc như niềm an ủi trong cái guồng quay nhiều lúc chóng mặt của thế giới náo nhiệt. Hơn hai thập kỷ rồi, từ độ người lên núi kẻ về xuôi, tôi vẫn dõi về phía mây trắng trời tây, nghe Văn Công Hùng phân thân trong cây lá suối rừng, tiếp âm nguồn mạch văn hoá vạm vỡ của chiêng cồng, của sử thi, của những mái nhà dài, của những ghè rượu tràn mùa... Dõi về với những hồi hộp, lo lắng, mừng vui, qua Bến Đợi, qua Hát Rong, qua Ngựa trắng bay về. Và hôm nay, qua Hoa Tường vi trong mưa, tập thơ đầy đặn và bề thế những chặng đường của đi và về, của nghĩ và cảm, của mê đắm và tỉnh thức, của tiễn đưa và sum họp, của ký ức và dự cảm, của khoảnh khắc và muôn trùng, của bất chợt và vĩnh viễn... Văn Công Hùng thuộc trong số những người hiếm hoi bước ra từ khung cửa giảng đường nơi sông Hương núi Ngự để làm cuộc hành trình vạn dặm mà luôn bền bỉ thuỷ chung với thơ. Bấm đốt ngón tay, một phần tư thế kỷ đi qua, thơ vẫn là nguồn lực cổ vũ anh đi và là cái đích anh đến, dù trải qua nước mắt hay nụ cười, dù làm một lữ khách bên quán vắng hay tề tựu trong Khuê Văn sang trọng thềm gấm rèm châu.

Tôi đọc Hoa tường vi trong mưa của Văn Công Hùng trong suốt những ngày ồn ào hoặc tĩnh lặng, khoảng trống của những chuyến đi tất bật do các Hội nghị Văn học Nghệ thuật trung ương tổ chức trong mùa hè vừa qua. Mới Châu Đốc đó đã Sài Gòn. Mới Thanh Hoá đó đã Nha Trang. Mới Phú Yên đó đã Kon Tum. Và tôi biết, trên tay của nhiều văn nhân thi sĩ khác, kẻ bắc người nam, đã có Hoa tường vi trong mưa. Sự ra đời của Hoa tường vi trong mưa vốn đầy nhiệt huyết ân tình và sự tiếp nhận nó từ bằng hữu, từ những bạn đọc yêu mến thơ Văn Công Hùng cũng tương tự như vậy. Rộn rã như mùa. Tràn ngập như mùa. Và cũng bất ngờ như mùa:
Có ai không? Ờ thì mầm xuân bật đất. Những hạt tinh khôi ngơ ngác giữa vòm xanh enlip. Bột nắng bàng hoàng ươm xoã tóc thơm.
Ô hay mà ngẩn ngơ thi hứng. Cao Nguyên đón mùa xuân bằng vạm vỡ ngực trần. Cúc quỳ vàng như nắng, mà nắng thì rờm rợp giữa hoàng hôn. Có hẹn ai đâu mà chiều nay cửa gõ, thảng thốt mùa xuân dìu dịu bước lên thềm.
                                                                                    ( Mùa )
Cái mầm dã quỳ vàng rực như nắng Tây nguyên đã chói chang hồn thơ Văn Công Hùng. Nhiều lúc sự gắn bó với đất đai nơi này như là một duyên phận:
                                    Gió dã quỳ hoang dại tuổi thơ tôi
                                    thổi thăm thẳm xa xưa miền cổ tích
                                    miên man cao nguyên xanh màu u tịch
                                    sắc vàng nào lưu luyến cỏ bazan
                                                                        ( Gió Dã quỳ )
Tạng thơ Văn Công Hùng là tạng thơ nồng nàn, đắm say, ngồn ngộn những gió nắng hào hoa và dầu dãi của những phương trời chất ngất tình yêu. Dù là đi về phía ký ức hay vọng tới phía tương lai, dù lang thang với nỗi buồn hay nhộn nhàng với niềm vui, dù đang nhìn vào nội tâm hay hướng ra ngoại cảnh... giọng thơ anh cũng đầy âm thanh và mầu sắc. Tôi đọc đi đọc lại bài thơ Hoa tường vi trong mưa, bài thơ làm tựa đề cho cả tập 62 bài, nghe rất nhiều âm thanh vừa buốt xói vừa rộn rã, vừa ào ạt vừa tinh nhạy. Bao nhiêu ngôn từ gợi cảm được Văn Công Hùng ném vào những khổ thơ để lột tả những ý tưởng đang sôi réo, trào dâng: run rẩy, nhấp nhoáng, đi, hát, khóc vùi, thổi lạnh, vỡ trắng, vụn nát, thăm thẳm, đẫm gió... Cơn mưa nhiều cung bậc của hoài niệm và dự tưởng, ấy là cơn mưa đầu mùa của Cao Nguyên quyết liệt, thanh trong, thao thiết, quay quắt:
                                    Chỉ còn cao nguyên phố núi và em
                                    đành gửi lại một chân trời đẫm gió
                                    đành gửi lại bông tường vi vẫn nở
                                    dẫu cơn mưa vẫn ủ lối đường về...
                                                                ( Hoa tường vi trong mưa )
Âm thanh và màu sắc ấy, biểu hiện ngay cả ở tiếng thở dài:
                                    Ta xuôi sông Hậu
                                    gặp tiếng thở dài dung dăng phù sa đỏ...

                                    Không vung bút đề thơ vạt áo
                                    ta nghiêng vò rót rượu cùng sông
                                    uống sung sướng trong nỗi buồn khắc khoải
                                    uống đê mê trong đau đáu nỗi niềm...
                                                                        ( Sông Hậu )
Âm thanh và màu sắc ấy biểu hiện cả ở những nơi tĩnh vắng:
                                    Rồi sẽ về một buổi nắng không sương
                                    mây vung vãi sức mình trên biển vắng
                                    rồi sẽ tới một chân trời tĩnh lặng
                                    gió Sầm Sơn còn nghi ngút trong lòng...
                                                                             ( Sầm Sơn )
Với tâm trạng như thế, Văn Công Hùng diễn đạt về một miền hoài niệm như xới tung cảm giác:
Buổi chiều ấy như đã từng không có thật. Mưa. Mưa bàng hoàng thăm thẳm phía mờ rêu. Bỗng phượng nắng tưng bừng miền phố cổ, mặt trời rơi lặng lẽ nẻo em về. Tôi cúi nhặt mảnh gương trời vung vãi, đất tha hương mặn chát khói tơ hồng, câu hát vút lên từ kẽ phố. Sương giăng.
                                    ( Vọng Huế 2 )
Tôi đi qua những miền thơ của Văn Công Hùng, từ Pleiku đến đất Mũi, từ Huế đến An Giang, từ Tuy Hoà đến Sầm Sơn, từ Đà Lạt đến Kon Tum, từ núi đến biển, từ đồng bằng đến thảo nguyên, từ mùa thu sang mùa xuân, từ tuổi thơ đến tóc bạc, từ ấn tượng phố đến ký ức làng... phía nào cũng có những đặc trưng, thẳm sâu, da diết, cồn cào, lay động. Và tôi thật xúc động với những khoảng lặng của anh:
                                    Chiều nay giật mình đứng lặng
                                    lá vàng rơi nát không gian
                                                          ( Nhìn lá cao su rụng, nghĩ )
Hoặc cái tâm thế của nỗi cuồng si:
                                    van em đừng bước vội
                                    dốc hết rồi còn đâu...
                                                                    ( Chiều mùa đi )
Những lúc như vậy, anh đã chạm vào hai bờ hư thực:
                                    Có con dốc chiều lơ đãng
                                    tiễn người về tận chiêm bao...
                                                             ( Mùa xuân dã quỳ và gió )
                                    Chiếc lá vèo bay đoạn trường dâu bể
                                    ta ngỡ ngàng nghe dế dắt mùa đi
                                                             ( Không đề với hoa và lá và...)
                                    Cơn gió mơ về miền rét
                                    thăm thẳm chiều trong mỗi bước thiên di...
                                                             ( Giấc mơ mùa đông )
Anh có những câu thơ thật cảm động về vợ:
                                    Có những lúc trốn xô bồ ta về tựa vào em
                                    như con tàu viễn dương thả neo bám vào đất mẹ...
                                    ...
                                    em nâng đỡ mỗi khi ta mệt mỏi
                                    mỗi khi ta chuẩn bị ăn đòn...
                                                                        ( Vợ )

Anh có những câu thơ thật cảm động về bạn:
                                    Không bèo bọt chưa đá vàng
                                    ngẫm đời như lũ dã tràng biển khơi
                                    lênh đênh một chiếc thuyền trôi
                                    mà sông thì rộng mà trời thì cao...
                                                         ( Cây phượng vĩ một mình )
Và cho chính mình:
                                    Krông Pa đêm như sương
                                    người tan nhoè cõi nhớ thương riêng mình
                                    ta đong một chén bình minh
                                    một ly nghiêng ngửa, một bình hoàng hôn...
                                                              ( Đêm Krông Pa )

Liên tiếp trong vòng mười năm, anh cho ra đời 4 tập thơ và trường ca. Sắp tới, cả bút ký phóng sự phong tục. Là người quản lý Hội Văn học Nghệ thuật địa phương, là hội viên của ba hội chuyên ngành trung ương: Hội Nhà Văn Việt Nam, Hội Nhà Báo Việt Nam, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, phải nói là Văn Công Hùng hết sức bận rộn. Nhưng ở lĩnh vực nào, anh cũng đạt những thành tựu đáng kể. Anh đoạt giải thưởng UBTQ liên hiệp các hội VHNT Việt Nam năm 2002, đạt giải thưởng Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam các năm 2001 và 2002, tặng thưởng cuộc thi thơ Tạp chí Sông Hương 2002 - 2003. Anh xuất hiện đều khắp các báo với vai trò đóng góp vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở Tây Nguyên. Và đậm đặc nhất, sôi động nhất và cũng trầm tĩnh nhất là thời gian Văn Công Hùng dành cho thơ. Thơ, như trên đã đề cập, là sự nâng đỡ và sẻ chia, là cái đích của cuộc đời, dù phải đi qua bao nhiêu ghềnh thác. Người Hát rong vẫn có Bến đợi, trong nắng, trong mưa, trong sương vẫn ngân lên những giai điệu ăm ắp tin yêu và hy vọng. Anh sinh ra ở miền Bắc, được đào tạo chính quy ở cố đô Huế quê hương và trưởng thành ở Tây Nguyên, những tố chất của các vùng đất đã để lại trong anh bao nhiêu dấu ấn khó phai mờ. Và anh đã biết chắt lọc, nâng niu những nguồn mạch văn hoá để nuôi dưỡng hồn thơ của mình. Tiếng thơ Văn Công Hùng, do vậy, hy vọng sẽ có sức lan toả...
 Quy Nhơn, chiều 12/ 9/ 2003.
            N.T.M

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".