Ảnh: Internet
Khuynh hướng đại chúng và ích dụng Quan niệm văn chương như một cuộc chơi nghệ thuật hay thú vui tao nhã đã lùi bước trước nhu cầu cấp thiết của đa số công chúng thông thường, được chăm sóc và “tái sản xuất” sức khoẻ tinh thần trong một đời sống đã xuất hiện nhiều sức ép cả về cơm áo lẫn tri thức và văn hoá. Một tầng lớp công chúng trẻ về tuổi đời, khác biệt về thẩm mỹ đòi hỏi những sản phẩm tinh thần nhất thời và kịp thời của họ. Nắm bắt điều này không ai khác ngoài những nhà xuất bản năng động và chính tầng lớp người viết trẻ tuổi. Họ viết cho nhu cầu ích dụng và đại chúng của thế hệ mình. Có thể xem những tác phẩm văn học đáp ứng nhu cầu này là một dạng “hàng hoá” đặc biệt, sẵn có khía cạnh cao cấp và tinh tế, chính vì vậy nó cũng rất cần những tiêu chí nghiêm khắc và đảm bảo hữu ích tối đa cho người đọc. Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là nhà văn thành công nhất của năm 2010, mà còn là nhà văn thành công nhất trong 10 năm qua. Tất cả những đầu sách của ông đều được đón mừng nhiệt liệt và trở thành “hiện tượng” thậm chí ngay cả khi nó chưa có ấn bản: Tớ là Bê tô, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh,… Óc quan sát và ghi nhớ tường tận, tỉ mỉ, năng lực dè sẻn và bố trí các tình tiết sao cho hợp thức và tiết giảm tối đa, khả năng lưu giữ và dẫn dắt cảm xúc của chính bản thân đến đều khắp các tình huống, sự từng trải lịch lãm để gây dựng được hiệu quả cân bằng giữa tính cảm xúc bay bổng và logic duy vật của hiện thực, tính hài hước, tất cả là “bí quyết” để nhà văn xây dựng hệ thống tác phẩm dài hơi về đề tài tâm hồn và cuộc sống đời thường của trẻ em, thanh thiếu niên. Nếu so sánh với các loạt truyện dài hơi khác từng mê hoặc độc giả nhí và cả nhiều tầng lớp người lớn, như Doraemon, Harry Potter, Chúa tể của nhẫn, cũng có thể rút ra cách thức gần tương tự. Như vậy sáng tạo của nhà văn được ghi nhận ở khâu nào của dòng văn chương này? Đối với nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, có lẽ điều đó nằm ở khả năng kéo gần lại, dung hoà những ý tưởng mang tính giáo dục với thoả mãn nhu cầu được xoa dịu, nâng đỡ, thậm chí là nhu cầu hưởng thụ về mặt cảm xúc, của cả trẻ em và đứa trẻ trong những người đã lớn. Vấn đề còn lại là chủ yếu mang tính kỹ thuật, tất nhiên, nhuần nhuyễn. Phan Việt cũng là một tác giả nhanh chóng gặt hái thành công ấn tượng trong các truyện ngắn, tiểu thuyết về tình yêu, đời sống của giới trẻ, cuốn sách mới nhất của chị, Nước Mỹ nước Mỹ (NXB Trẻ, 2010). Vốn là người nghiên cứu khoa học xã hội, chị nắm vững những biến chuyển tâm lý của lớp trẻ trong một đời sống đã hoặc đang phát triển, như ở Mỹ, ở Việt Nam. Đó là tâm thế không ổn định, hoang mang về xác tín trong tương quan với những ổn định và xác tín của giá trị đã có. Biết tạo nên những cốt truyện hấp dẫn, không sa vào sự hình dung dễ dãi nhợt nhạt về tình yêu và cảm nhận, với những hình ảnh tưởng tượng khá sinh động, đặc biệt là năng lực tiết giảm tối đa và sắp đặt tình tiết chặt chẽ, Phan Việt kể với bạn đọc những câu chuyện cuốn hút, bước đầu mang ý nghĩa tâm lý. Tuy nhiên, bản thân sự ly kỳ, chặt chẽ, lắt léo một cách cao trào mới chỉ hiện ra như một kỹ thuật trong tổ chức tác phẩm. Người đọc chưa nhận thấy sự sáng tạo về mặt ý tưởng hay diễn biến của nó trong những câu chuyện mà chị đưa ra, cũng như chưa nhận thấy rung động và thái độ sống đích thực của người viết, đằng sau thế giới hư cấu của các nhân vật. Văn phong cầu kỳ, chi tiết cũng là một điểm mạnh của Phan Việt, nhưng nhiều lúc lại giống như một sự cố ý, gây cảm giác nhàm chán. Điều kiện trước tiên, quan trọng của viết văn là những rung động và thái độ sống đích thực chỉ của riêng người viết, sẽ quyết định việc sáng tạo ý tưởng, quan niệm hiện thực cũng như quan niệm nghệ thuật, dần hình thành trong quá trình theo đuổi nghề viết sau đó. Điều kiện này có thể không cần viện đến trong lĩnh vực văn chương giải trí và ích dụng, tuy nhiên quan niệm loại thể phải được rạch ròi. Năm 2010, nhà văn Trang Hạ trình làng 2 cuốn sách mới, Đàn bà ba mươi (NXB Văn học, 2010) và Chuyện kể dưới ngọn đèn đường (NXB Phụ nữ, 2010). Vẫn tiếp tục mạch hình dung về hiện thực có phần đơn giản, sáng tỏ, thiên về ý nghĩa nhân sinh, Trang Hạ là cây bút được yêu mến vì lối thông tin sòng phẳng, hữu ích, thái độ nhập cuộc các vấn đề của đời sống khá can đảm và rành mạch. Nhà văn Ngô Phan Lưu, mỗi năm liên tiếp ra mắt 1 tập truyện ngắn, năm 2010 là Con lươn chép miệng, (NXB Văn học) với những câu chuyện dung lượng xinh xắn, khơi gợi hiếu kỳ có dụng ý, có khuynh hướng kiếm tìm cái quái lạ về thẩm mỹ, cũng thể hiện rõ rệt mục tiêu giải trí và thư giãn “trị liệu” tinh thần cho độc giả ngày nay. Tác giả Nguyễn Đình Tú “công khai” Kín (NXB Văn học, 2010), sau những Phiên bản, Nháp, tiếp tục tạo những best-seller nho nhỏ, cục bộ, có lẽ cũng là một điều đáng mừng cho người viết. Chú ý hơn tới việc kiếm tìm những chi tiết mang thông tin phản tỉnh, đặc biệt và dị biệt, Nguyễn Đình Tú cho người đọc cảm giác về một người viết trẻ tuổi đã trở nên riêng biệt và sâu sắc hơn là bị định hình theo những ý niệm đạo đức xã hội sẵn có. Dương Thụy sau loạt truyện du ký, tiếp tục với Nhắm mắt thấy Paris (NXB Trẻ, 2010), Dương Bình Nguyên kể Chuyện tình Paris (NXB Hội Nhà văn, 2010), DiLi theo đuổi mảng trinh thám kinh dị, Hồng Sakura bắt đầu được biết đến với Susu đừng khóc (NXB Hội Nhà văn, 2010)… văn học giải trí và ích dụng đã thực sự trở thành khuynh hướng rõ rệt, lấn át không chỉ trong người viết và độc giả trẻ. Tuy nhiên, với loại sáng tác này, nguy cơ sa vào cách thức mua vui thuần tuý, hoặc vay mượn những tình cảm hời hợt giả tạo, có thể xảy đến với bất kỳ tác giả nào. Đây là bước đi ngắn nhưng quan trọng của văn chương Việt trong mười năm qua. Công nhận chức năng thực dụng của văn chương, bên cạnh ý nghĩa như một công việc đòi hỏi giá trị nghệ thuật cao, chính là bước đầu chuyên biệt hoá đối với cả độc giả và người viết, để loại bỏ tình trạng dở sáng dở tối, câu nệ vào định kiến (văn chương chỉ là thứ cao sang, để tạo ra nó rất nhiêu khê - lý sự của những người thiếu tài và lười làm việc), khu biệt lĩnh vực để đi tới sàng lọc và tìm ra tài năng cũng như những giá trị văn chương đích thực. Nếu như ở các nước Tây phương, thể loại văn chương ích dụng được rạch ròi hiển nhiên, có nhãn mác quy định đàng hoàng: chick lit, pre school, romance, bên cạnh các thể loại phiêu lưu, kinh dị, giả tưởng thì ở Việt Nam mới chỉ có một cách gọi chung chung là “văn học”. Vì là “hàng hoá”, được thị trường chấp nhận là một tiêu chí cơ bản. Nhưng để làm được trọn vẹn ý nghĩa “ích dụng” khá tinh tế của nó, cũng cần những nhà phê bình thẩm định tương đối khó tính và đòi hỏi người viết phải cực kỳ nghiêm khắc với chính mình. Những sản phẩm hời hợt dễ dãi là nguy cơ để vuột mất ý nghĩa văn học thích đáng trong dòng viết này, hoà tan và dần xoá sổ nó trong làng giải trí. Khuynh hướng “nghiệp dư hoá” Việc viết văn đúng nghĩa, nghiêm cẩn, luôn cảnh giác, xa lánh sự “làm hàng” thuần tuý kỹ thuật, nó gần gũi với thú chơi ở chỗ không làm ra thành công, tiền bạc, danh vọng nhưng lại là một nghề khắc nghiệt đến nỗi có thể lấy mất toàn tâm toàn trí và tất cả cuộc đời của người viết, mà có khi hoàn toàn không mang lại thậm chí cả giá trị nào cho văn chương, nếu người viết không có tài. Người viết văn đích thực không chuyên nghiệp cũng không “nghiệp dư”, mà chỉ đơn giản dành cả cuộc đời cho nó, ngoài việc tự kiếm sống bằng bất kỳ cách gì. Nói khuynh hướng “nghiệp dư” hoá là nói đến tình trạng một số quan niệm đang làm cho đời sống văn học trở nên thiếu độ tin cậy, ý nghĩa văn học bị “lạm dụng”. Đã từ lâu, không mấy ai còn bàn đến tác dụng ghi nhận hay kích thích sáng tạo ở các giải thưởng văn học chính thống trong nước. Những giải thưởng này đương nhiên chỉ là một cách đánh giá của một bộ phận công chúng, được tư duy theo cách thức còn sơ giản, mang tính “mặt trận” nhiều hơn tính nghề nghiệp. Ví dụ đề tài một cuộc thi được phát động “về lịch sử, chiến tranh cách mạng, và công cuộc đổi mới đất nước”, đã cho thấy chỉ những tác phẩm nào thì mới đủ tư cách tham gia. Tại sao không có cuộc thi nào ra điều lệ cho những tác phẩm “mang đậm dấu ấn sáng tạo nghề nghiệp, khắc hoạ chân thực, sâu sắc đời sống và con người Việt Nam”? Nếu xem xét sẽ thấy, giải thưởng Nobel văn học hàng năm đều trao cho những tác phẩm viết về nỗi khổ đau, bất hạnh, về nhân tính bị đày ải ở những “xó xỉnh” mà thông tin đại chúng dù tân tiến đến đâu cũng chưa bao giờ đề cập tới đầy đủ, chính xác, sinh động, sâu sắc. Còn các tiểu thuyết hay tập thơ được giải, kể cả giải “xã hội hóa” ở Việt Nam, thường dừng ở một thứ hiện thực phải chăng, một chút hạnh phúc trộn lẫn một chút buồn buồn, một chút sexy trộn lẫn một chút đạo đức, một chút giáo điều hoà với một chút “cách tân”. Tóm lại là một thứ hiện thực và nghệ thuật an toàn cho cả người trao giải lẫn người nhận, xa lạ với tinh thần độc lập, chói sáng và duy nhất của hoạt động sáng tạo. Một số giải thưởng được xem là có chủ kiến, có sự dũng cảm trước công luận và nhấn mạnh giá trị nghề nghiệp, cũng đang dừng ở mức khôi phục và ghi nhận (lại) thành tựu với các tác giả có ảnh hưởng sâu rộng trong văn chương và xã hội, ở thời điểm quan trọng, cần thiết, chứ chưa đủ năng lực nhận định và tuyên dương những sáng tạo mới. Năm nay, thể tài tiểu thuyết lịch sử, thơ về Hà Nội, trở thành tâm điểm được quảng bá rầm rộ “ăn theo” đại lễ ngàn năm Thăng Long. Công bằng mà nói, nếu những cuộc thi mang tính chất “văn nghệ quần chúng” chỉ là dịp giao lưu vui vẻ, thì thời điểm Thăng Long ngàn tuổi lại thực sự tạo cơ hội và “cú hích” gần để một số nhà văn công bố công trình mang ý nghĩa quan trọng của mình. Hai bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ, Tám triều vua Lý và Bão táp triều Trần của nhà văn Hoàng Quốc Hải, (NXB Phụ nữ, 2010) là kết quả nghiên cứu dày công, phục dựng trên tinh thần khoa học, chi tiết, diện mạo và những vận động hình thành lịch sử hai triều đại phong kiến lừng lẫy của nước ta. Cái nhìn “lịch sử theo chiều ngược lại”, xuất phát từ hiện tại là tất yếu, đương nhiên, nhưng nếu nhà văn không ở tầm có thể đưa ra những quan niệm có hệ thống, đảo ngược tương quan có trước của chính sử một cách khoa học, thuyết phục, thì cũng không nên “hư cấu” ra những trang dã sử với kiểu hình dung thời thượng, tình ái, sexy, đấu đá cá nhân… tùy tiện về lịch sử. Kịch bản phim lịch sử, một dạng tác phẩm văn học ích dụng, càng phải tôn trọng tính chất khách quan, tổng hoà của lịch sử, không thể tùy ý bịa đặt những cốt truyện vô lối, không có cơ sở về tâm lý cũng như logic sự kiện, đó là hành động xuyên tạc, dù vô tình. Nhiều nghệ sĩ, nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác cũng đã có sự “lấn sân” sang văn chương, như một cách chia sẻ niềm vui hay nhọc nhằn của nghề viết. Tính chất “nghiệp dư” khi nói về họ chỉ có hàm ý về một công việc sáng tạo đến muộn hơn, với ngôn ngữ và chất liệu còn có phần chưa quen thuộc so với nghề “tay phải”. Cà phê… Mưa của nhạc sĩ Dương Thụ, Thị Dân của nhạc sĩ Quốc Bảo còn cần khó tính hơn nữa khi nhìn nhận ý nghĩa văn học của những tâm tình cá nhân, câu chuyện thời cuộc và văn hoá. Tiểu thuyết Vắng mặt (NXB Hội Nhà văn 2010) và các tập truyện ngắn của hoạ sĩ Đỗ Phấn cần con mắt biên tập và kỹ năng sử dụng chi tiết văn học đích đáng hơn, cũng như sự tập trung và rõ rệt hơn về mặt tư tưởng. Tuyển truyện ngắn và cực ngắn của nhà sử học Nguyễn Thị Hậu (in chung với Nguyễn Thị Minh Thái, NXB Văn hoá Sài gòn) bộc lộ tâm hồn phụ nữ dịu dàng, thuần hậu, mỹ cảm chân phương, khoát đạt mà cũng… của người nghiên cứu. Ngoại trừ ý định “làm dáng”, đánh bóng bản thân, trừ trường hợp “viết sách” để công bố và sử dụng bóp méo một cách nhếch nhác như Sợi xích… các nghệ sĩ và trí thức khác khi lấn sân văn học đều xuất phát từ nhu cầu tự nhiên, được bộc lộ con người sáng tạo bằng ngôn từ của họ, như một cuộc chơi, cuộc thám hiểm mới mẻ và đem lại cho văn chương những giọng điệu lạ lẫm tưởng như tình cờ. Bên cạnh sự hồn nhiên, họ vẫn phải biết luật chơi để “chơi cho đẹp”, cho thú vị. Ít thấy nghệ sĩ, trí thức nào đóng góp cho lĩnh vực văn chương thành tựu lớn hơn sự nghiệp chính của họ, và đây cũng không phải hiện tượng chưa từng phổ biến trong đời sống văn học nói chung. Nhưng chính sự cởi mở hơn của thị trường đọc và in ấn, một quan niệm đời thường hơn về việc viết văn, coi viết cũng là một dạng thông tin đời sống bổ sung cho nghệ thuật, và chấp nhận những nội dung khác biệt như các vấn đề nghệ thuật và cái liên quan tới nó như một hàm nghĩa mới của văn chương, đã và sẽ thúc đẩy một tầng lớp “không chuyên” trong văn học với những bất ngờ chưa đoán trước. Ước mong một thế hệ nhà văn đa văn hóa Cuộc gặp gỡ của nhà văn Pháp gốc Việt Linda Lê với độc giả Việt Nam ở cả Hà Nội, Huế, Sài Gòn hồi trung tuần tháng 10 năm 2010 là sự kiện quan trọng, cho thấy mối quan tâm đặc biệt của chính nhà văn và độc giả trong nước tới tương quan giữa bản sắc cá nhân, riêng lẻ, khác biệt, với cái “xa lạ kỳ lạ” của những nền văn hóa khác, cũng như cái rộng lớn mênh mông của tri thức. Để thâm nhập và “đồng hóa” người xa lạ kỳ lạ và tự mình trở thành một bản sắc của tri thức rộng lớn, điều cần thiết là rũ bỏ định kiến bị áp đặt từ những lực lượng lấn át trong đời sống của toàn thể nhân loại cũng như rũ bỏ định kiến về cái nhược tiểu, “lạc lõng” và bé mọn. Càng ngày, các vị trí quan trọng của nền văn chương thế giới càng được gánh vác bởi những nhà văn đa văn hóa: J. Brodsky, Philip Roth, S. Naipaul, Samal Ruddie, Cao Hành Kiện, Orhan Pamuk, A. M. Llosa… Các nhà văn gốc Việt như Linda Lê, Nam Le, đã tạo ra tiếng nói văn chương mang giá trị của nhiều nền văn hóa, và đó là cách đáng kể nhất để chinh phục thế giới rộng lớn bằng bản sắc của họ. Cùng với việc lựa chọn một ngôn ngữ lớn mạnh như Anh, Pháp, Latin, các nhà văn đa văn hóa luôn thừa nhận ý nghĩa hai mặt của một bản thể hay gốc tích: một mặt, là những di truyền quý giá về tinh thần, mặt còn lại, những định kiến bảo thủ, sự áp chế mà họ luôn nhận thấy cần phải phê phán một cách trực diện và quyết liệt. Việt Nam có nhiều thế hệ sinh sống và làm việc trong các quốc gia có những nền văn hóa lớn, thế hệ vì những biến cố lịch sử xã hội, thế hệ du học sinh thời điểm hiện tại, thế hệ những người sinh ra và lớn lên, tiếp thu hoàn toàn nền giáo dục “bản ngữ” Anh, Pháp… Trong số đó, từng và sẽ có nhiều người chọn viết văn làm sự nghiệp để cống hiến về mặt tư tưởng nhân sinh, triết lý văn chương cũng như nghệ thuật, dù họ có chọn tiếng Việt hay không. Trong khi những người viết xuất phát tầng lớp du học sinh đa số dừng lại ở tâm trạng hồ hởi, niềm vui thích khi được tiếp xúc với những nét độc đáo, ý nghĩa thụ hưởng từ văn hóa “lạ” mang tới, thì những nhà văn đã có cuộc sống gắn bó với đất nước bao bọc họ, dù là từ những nguyên do sâu xa về tâm lý hay đơn giản chỉ vì được sinh ra và nuôi dưỡng bằng ngôn ngữ, văn hóa “bản địa”, có quan niệm sâu sắc hơn về hành trình của cá nhân đến với thế giới. Những nhà văn có thể đồng thời thực hiện nhiều ngôn ngữ, nhưng vẫn tự nuôi dưỡng nhờ tiếng Việt: Diễm Châu (đã mất), Nguyễn Đăng Thường, Đinh Linh, Nguyễn Đức Tùng, Phạm Thị Hoài, Đỗ Kh., McAmmond Nguyen Thi Tu, Mai Ninh, Đặng Thơ Thơ, Phan Nhiên Hạo, Trần Thiện Huy, Lưu Diệu Vân… Tiếng Việt của họ giàu phức cảm, lạc quan, trẻ trung, gia tăng ý nghĩa khoa học và được làm trong sáng gọt giũa hơn nhờ kết hợp kỹ năng của ngôn ngữ khác. (Phần cống hiến cho ngôn ngữ khác của các nhà văn này là một vấn đề liên quan nhưng chưa đủ điều kiện đề cập trong bài viết này). Trở ngại đối với họ, có lẽ là để chuyển từ tâm thức của một ngôn ngữ hẻo lánh như tiếng Việt, hoàn toàn bước sang tâm thức của một thứ ngôn ngữ bao trùm hơn hẳn, mà vẫn giữ gần trọn vẹn những độc đáo dị biệt di truyền từ nguyên bản. (Thế hệ nhà văn hoàn toàn sinh ra và lớn lên ở nước ngoài có lẽ sẽ không gặp phải khó khăn này, nhưng vấn đề của họ hoàn toàn khác). Không sống trong bầu sinh quyển đa văn hóa, nhưng một số nhà văn, nhà thơ tích cực và năng động nhất sống trong nước vẫn gắng sức một cách cảm động để thấm hút, cập nhật những biến chuyển về tư duy nghệ thuật của văn chương thế giới. Có những người vẫn liên tục mới mẻ suốt nhiều năm trở lại đây như Trần Tiến Dũng, Nguyễn Nguyên Phước (ở mức độ nghề nghiệp khác nhau)… Những người tự làm mới mình bằng nhiều cách thức, làm mới tiếng Việt bằng những giá trị kể cả từ bề dày quá khứ lẫn đương đại: Trần Hữu Dũng, Lê Vĩnh Tài, Bùi Chát, Đỗ Quyên, Mai Văn Phấn, Đinh Thị Như Thúy, Phạm Tường Vân, Nguyễn Thúy Hằng, Nhã Thuyên… Dù ở nhiều cấp độ khác nhau trong nghề nghiệp, mức độ tài năng khác nhau, nhưng họ cùng hướng tới ý thức về một thứ văn chương rộng lớn bao gồm những ý nghĩa sâu sắc về con người và kiếm tìm giá trị cao của nghề nghiệp. Một nhà văn nào đó có viết về sự tiến bộ, đó là tiến bộ không chỉ chạy theo cái đã vượt trước, (hàm ý văn hóa Tây phương) mà còn bao hàm cả những giá trị theo nhiều chiều hướng khác, sự tiến bộ bao hàm nhiều bản sắc và khuynh hướng của nhiều không gian văn hóa khác nhau. Thành tựu mà văn chương Việt đang chờ đợi, có lẽ nên hy vọng gửi gắm ở bản lĩnh văn hóa xuất phát từ sự trung thực và sòng phẳng của tâm thức Việt, để đến với những gì rộng lớn hơn… Ngày 31 tháng 12 năm 2010 K.P (264/2-11) |
LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?
PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...
PHI HÙNG(tiếp theo)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.
PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ. L.Tonstoi
TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.
PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...
NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.
NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?
NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.
HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)