Văn chương Việt hết năm 2010, một thập kỷ vẫn... “chờ” thành tựu

14:58 27/01/2011
KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

Ảnh: Internet

Khuynh hướng đại chúng và ích dụng

Quan niệm văn chương như một cuộc chơi nghệ thuật hay thú vui tao nhã đã lùi bước trước nhu cầu cấp thiết của đa số công chúng thông thường, được chăm sóc và “tái sản xuất” sức khoẻ tinh thần trong một đời sống đã xuất hiện nhiều sức ép cả về cơm áo lẫn tri thức và văn hoá. Một tầng lớp công chúng trẻ về tuổi đời, khác biệt về thẩm mỹ đòi hỏi những sản phẩm tinh thần nhất thời và kịp thời của họ. Nắm bắt điều này không ai khác ngoài những nhà xuất bản năng động và chính tầng lớp người viết trẻ tuổi. Họ viết cho nhu cầu ích dụng và đại chúng của thế hệ mình. Có thể xem những tác phẩm văn học đáp ứng nhu cầu này là một dạng “hàng hoá” đặc biệt, sẵn có khía cạnh cao cấp và tinh tế, chính vì vậy nó cũng rất cần những tiêu chí nghiêm khắc và đảm bảo hữu ích tối đa cho người đọc.

Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là nhà văn thành công nhất của năm 2010, mà còn là nhà văn thành công nhất trong 10 năm qua. Tất cả những đầu sách của ông đều được đón mừng nhiệt liệt và trở thành “hiện tượng” thậm chí ngay cả khi nó chưa có ấn bản: Tớ là Bê tô, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh,… Óc quan sát và ghi nhớ tường tận, tỉ mỉ, năng lực dè sẻn và bố trí các tình tiết sao cho hợp thức và tiết giảm tối đa, khả năng lưu giữ và dẫn dắt cảm xúc của chính bản thân đến đều khắp các tình huống, sự từng trải lịch lãm để gây dựng được hiệu quả cân bằng giữa tính cảm xúc bay bổng và logic duy vật của hiện thực, tính hài hước, tất cả là “bí quyết” để nhà văn xây dựng hệ thống tác phẩm dài hơi về đề tài tâm hồn và cuộc sống đời thường của trẻ em, thanh thiếu niên.

Nếu so sánh với các loạt truyện dài hơi khác từng mê hoặc độc giả nhí và cả nhiều tầng lớp người lớn, như Doraemon, Harry Potter, Chúa tể của nhẫn, cũng có thể rút ra cách thức gần tương tự.

Như vậy sáng tạo của nhà văn được ghi nhận ở khâu nào của dòng văn chương này? Đối với nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, có lẽ điều đó nằm ở khả năng kéo gần lại, dung hoà những ý tưởng mang tính giáo dục với thoả mãn nhu cầu được xoa dịu, nâng đỡ, thậm chí là nhu cầu hưởng thụ về mặt cảm xúc, của cả trẻ em và đứa trẻ trong những người đã lớn. Vấn đề còn lại là chủ yếu mang tính kỹ thuật, tất nhiên, nhuần nhuyễn.

Phan Việt cũng là một tác giả nhanh chóng gặt hái thành công ấn tượng trong các truyện ngắn, tiểu thuyết về tình yêu, đời sống của giới trẻ, cuốn sách mới nhất của chị, Nước Mỹ nước Mỹ (NXB Trẻ, 2010). Vốn là người nghiên cứu khoa học xã hội, chị nắm vững những biến chuyển tâm lý của lớp trẻ trong một đời sống đã hoặc đang phát triển, như ở Mỹ, ở Việt Nam. Đó là tâm thế không ổn định, hoang mang về xác tín trong tương quan với những ổn định và xác tín của giá trị đã có. Biết tạo nên những cốt truyện hấp dẫn, không sa vào sự hình dung dễ dãi nhợt nhạt về tình yêu và cảm nhận, với những hình ảnh tưởng tượng khá sinh động, đặc biệt là năng lực tiết giảm tối đa và sắp đặt tình tiết chặt chẽ, Phan Việt kể với bạn đọc những câu chuyện cuốn hút, bước đầu mang ý nghĩa tâm lý. Tuy nhiên, bản thân sự ly kỳ, chặt chẽ, lắt léo một cách cao trào mới chỉ hiện ra như một kỹ thuật trong tổ chức tác phẩm. Người đọc chưa nhận thấy sự sáng tạo về mặt ý tưởng hay diễn biến của nó trong những câu chuyện mà chị đưa ra, cũng như chưa nhận thấy rung động và thái độ sống đích thực của người viết, đằng sau thế giới hư cấu của các nhân vật. Văn phong cầu kỳ, chi tiết cũng là một điểm mạnh của Phan Việt, nhưng nhiều lúc lại giống như một sự cố ý, gây cảm giác nhàm chán.

Điều kiện trước tiên, quan trọng của viết văn là những rung động và thái độ sống đích thực chỉ của riêng người viết, sẽ quyết định việc sáng tạo ý tưởng, quan niệm hiện thực cũng như quan niệm nghệ thuật, dần hình thành trong quá trình theo đuổi nghề viết sau đó. Điều kiện này có thể không cần viện đến trong lĩnh vực văn chương giải trí và ích dụng, tuy nhiên quan niệm loại thể phải được rạch ròi.

Năm 2010, nhà văn Trang Hạ trình làng 2 cuốn sách mới, Đàn bà ba mươi (NXB Văn học, 2010) và Chuyện kể dưới ngọn đèn đường (NXB Phụ nữ, 2010). Vẫn tiếp tục mạch hình dung về hiện thực có phần đơn giản, sáng tỏ, thiên về ý nghĩa nhân sinh, Trang Hạ là cây bút được yêu mến vì lối thông tin sòng phẳng, hữu ích, thái độ nhập cuộc các vấn đề của đời sống khá can đảm và rành mạch.

Nhà văn Ngô Phan Lưu, mỗi năm liên tiếp ra mắt 1 tập truyện ngắn, năm 2010 là Con lươn chép miệng, (NXB Văn học) với những câu chuyện dung lượng xinh xắn, khơi gợi hiếu kỳ có dụng ý, có khuynh hướng kiếm tìm cái quái lạ về thẩm mỹ, cũng thể hiện rõ rệt mục tiêu giải trí và thư giãn “trị liệu” tinh thần cho độc giả ngày nay.

Tác giả Nguyễn Đình Tú “công khai” Kín (NXB Văn học, 2010), sau những Phiên bản, Nháp, tiếp tục tạo những best-seller nho nhỏ, cục bộ, có lẽ cũng là một điều đáng mừng cho người viết. Chú ý hơn tới việc kiếm tìm những chi tiết mang thông tin phản tỉnh, đặc biệt và dị biệt, Nguyễn Đình Tú cho người đọc cảm giác về một người viết trẻ tuổi đã trở nên riêng biệt và sâu sắc hơn là bị định hình theo những ý niệm đạo đức xã hội sẵn có. Dương Thụy sau loạt truyện du ký, tiếp tục với Nhắm mắt thấy Paris (NXB Trẻ, 2010), Dương Bình Nguyên kể Chuyện tình Paris (NXB Hội Nhà văn, 2010), DiLi theo đuổi mảng trinh thám kinh dị, Hồng Sakura bắt đầu được biết đến với Susu đừng khóc (NXB Hội Nhà văn, 2010)… văn học giải trí và ích dụng đã thực sự trở thành khuynh hướng rõ rệt, lấn át không chỉ trong người viết và độc giả trẻ.

Tuy nhiên, với loại sáng tác này, nguy cơ sa vào cách thức mua vui thuần tuý, hoặc vay mượn những tình cảm hời hợt giả tạo, có thể xảy đến với bất kỳ tác giả nào.

Đây là bước đi ngắn nhưng quan trọng của văn chương Việt trong mười năm qua. Công nhận chức năng thực dụng của văn chương, bên cạnh ý nghĩa như một công việc đòi hỏi giá trị nghệ thuật cao, chính là bước đầu chuyên biệt hoá đối với cả độc giả và người viết, để loại bỏ tình trạng dở sáng dở tối, câu nệ vào định kiến (văn chương chỉ là thứ cao sang, để tạo ra nó rất nhiêu khê - lý sự của những người thiếu tài và lười làm việc), khu biệt lĩnh vực để đi tới sàng lọc và tìm ra tài năng cũng như những giá trị văn chương đích thực.

Nếu như ở các nước Tây phương, thể loại văn chương ích dụng được rạch ròi hiển nhiên, có nhãn mác quy định đàng hoàng: chick lit, pre school, romance, bên cạnh các thể loại phiêu lưu, kinh dị, giả tưởng thì ở Việt Nam mới chỉ có một cách gọi chung chung là “văn học”. Vì là “hàng hoá”, được thị trường chấp nhận là một tiêu chí cơ bản. Nhưng để làm được trọn vẹn ý nghĩa “ích dụng” khá tinh tế của nó, cũng cần những nhà phê bình thẩm định tương đối khó tính và đòi hỏi người viết phải cực kỳ nghiêm khắc với chính mình. Những sản phẩm hời hợt dễ dãi là nguy cơ để vuột mất ý nghĩa văn học thích đáng trong dòng viết này, hoà tan và dần xoá sổ nó trong làng giải trí.

Khuynh hướng “nghiệp dư hoá”

Việc viết văn đúng nghĩa, nghiêm cẩn, luôn cảnh giác, xa lánh sự “làm hàng” thuần tuý kỹ thuật, nó gần gũi với thú chơi ở chỗ không làm ra thành công, tiền bạc, danh vọng nhưng lại là một nghề khắc nghiệt đến nỗi có thể lấy mất toàn tâm toàn trí và tất cả cuộc đời của người viết, mà có khi hoàn toàn không mang lại thậm chí cả giá trị nào cho văn chương, nếu người viết không có tài.

Người viết văn đích thực không chuyên nghiệp cũng không “nghiệp dư”, mà chỉ đơn giản dành cả cuộc đời cho nó, ngoài việc tự kiếm sống bằng bất kỳ cách gì. Nói khuynh hướng “nghiệp dư” hoá là nói đến tình trạng một số quan niệm đang làm cho đời sống văn học trở nên thiếu độ tin cậy, ý nghĩa văn học bị “lạm dụng”.

Đã từ lâu, không mấy ai còn bàn đến tác dụng ghi nhận hay kích thích sáng tạo ở các giải thưởng văn học chính thống trong nước. Những giải thưởng này đương nhiên chỉ là một cách đánh giá của một bộ phận công chúng, được tư duy theo cách thức còn sơ giản, mang tính “mặt trận” nhiều hơn tính nghề nghiệp. Ví dụ đề tài một cuộc thi được phát động “về lịch sử, chiến tranh cách mạng, và công cuộc đổi mới đất nước”, đã cho thấy chỉ những tác phẩm nào thì mới đủ tư cách tham gia. Tại sao không có cuộc thi nào ra điều lệ cho những tác phẩm “mang đậm dấu ấn sáng tạo nghề nghiệp, khắc hoạ chân thực, sâu sắc đời sống và con người Việt Nam”?

Nếu xem xét sẽ thấy, giải thưởng Nobel văn học hàng năm đều trao cho những tác phẩm viết về nỗi khổ đau, bất hạnh, về nhân tính bị đày ải ở những “xó xỉnh” mà thông tin đại chúng dù tân tiến đến đâu cũng chưa bao giờ đề cập tới đầy đủ, chính xác, sinh động, sâu sắc. Còn các tiểu thuyết hay tập thơ được giải, kể cả giải “xã hội hóa” ở Việt Nam, thường dừng ở một thứ hiện thực phải chăng, một chút hạnh phúc trộn lẫn một chút buồn buồn, một chút sexy trộn lẫn một chút đạo đức, một chút giáo điều hoà với một chút “cách tân”. Tóm lại là một thứ hiện thực và nghệ thuật an toàn cho cả người trao giải lẫn người nhận, xa lạ với tinh thần độc lập, chói sáng và duy nhất của hoạt động sáng tạo.

Một số giải thưởng được xem là có chủ kiến, có sự dũng cảm trước công luận và nhấn mạnh giá trị nghề nghiệp, cũng đang dừng ở mức khôi phục và ghi nhận (lại) thành tựu với các tác giả có ảnh hưởng sâu rộng trong văn chương và xã hội, ở thời điểm quan trọng, cần thiết, chứ chưa đủ năng lực nhận định và tuyên dương những sáng tạo mới.

Năm nay, thể tài tiểu thuyết lịch sử, thơ về Hà Nội, trở thành tâm điểm được quảng bá rầm rộ “ăn theo” đại lễ ngàn năm Thăng Long. Công bằng mà nói, nếu những cuộc thi mang tính chất “văn nghệ quần chúng” chỉ là dịp giao lưu vui vẻ, thì thời điểm Thăng Long ngàn tuổi lại thực sự tạo cơ hội và “cú hích” gần để một số nhà văn công bố công trình mang ý nghĩa quan trọng của mình. Hai bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ, Tám triều vua Lý và Bão táp triều Trần của nhà văn Hoàng Quốc Hải, (NXB Phụ nữ, 2010) là kết quả nghiên cứu dày công, phục dựng trên tinh thần khoa học, chi tiết, diện mạo và những vận động hình thành lịch sử hai triều đại phong kiến lừng lẫy của nước ta. Cái nhìn “lịch sử theo chiều ngược lại”, xuất phát từ hiện tại là tất yếu, đương nhiên, nhưng nếu nhà văn không ở tầm có thể đưa ra những quan niệm có hệ thống, đảo ngược tương quan có trước của chính sử một cách khoa học, thuyết phục, thì cũng không nên “hư cấu” ra những trang dã sử với kiểu hình dung thời thượng, tình ái, sexy, đấu đá cá nhân… tùy tiện về lịch sử.

Kịch bản phim lịch sử, một dạng tác phẩm văn học ích dụng, càng phải tôn trọng tính chất khách quan, tổng hoà của lịch sử, không thể tùy ý bịa đặt những cốt truyện vô lối, không có cơ sở về tâm lý cũng như logic sự kiện, đó là hành động xuyên tạc, dù vô tình.

Nhiều nghệ sĩ, nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác cũng đã có sự “lấn sân” sang văn chương, như một cách chia sẻ niềm vui hay nhọc nhằn của nghề viết. Tính chất “nghiệp dư” khi nói về họ chỉ có hàm ý về một công việc sáng tạo đến muộn hơn, với ngôn ngữ và chất liệu còn có phần chưa quen thuộc so với nghề “tay phải”. Cà phê… Mưa của nhạc sĩ Dương Thụ, Thị Dân của nhạc sĩ Quốc Bảo còn cần khó tính hơn nữa khi nhìn nhận ý nghĩa văn học của những tâm tình cá nhân, câu chuyện thời cuộc và văn hoá. Tiểu thuyết Vắng mặt (NXB Hội Nhà văn 2010) và các tập truyện ngắn của hoạ sĩ Đỗ Phấn cần con mắt biên tập và kỹ năng sử dụng chi tiết văn học đích đáng hơn, cũng như sự tập trung và rõ rệt hơn về mặt tư tưởng. Tuyển truyện ngắn và cực ngắn của nhà sử học Nguyễn Thị Hậu (in chung với Nguyễn Thị Minh Thái, NXB Văn hoá Sài gòn) bộc lộ tâm hồn phụ nữ dịu dàng, thuần hậu, mỹ cảm chân phương, khoát đạt mà cũng… của người nghiên cứu.

Ngoại trừ ý định “làm dáng”, đánh bóng bản thân, trừ trường hợp “viết sách” để công bố và sử dụng bóp méo một cách nhếch nhác như Sợi xích… các nghệ sĩ và trí thức khác khi lấn sân văn học đều xuất phát từ nhu cầu tự nhiên, được bộc lộ con người sáng tạo bằng ngôn từ của họ, như một cuộc chơi, cuộc thám hiểm mới mẻ và đem lại cho văn chương những giọng điệu lạ lẫm tưởng như tình cờ. Bên cạnh sự hồn nhiên, họ vẫn phải biết luật chơi để “chơi cho đẹp”, cho thú vị. Ít thấy nghệ sĩ, trí thức nào đóng góp cho lĩnh vực văn chương thành tựu lớn hơn sự nghiệp chính của họ, và đây cũng không phải hiện tượng chưa từng phổ biến trong đời sống văn học nói chung. Nhưng chính sự cởi mở hơn của thị trường đọc và in ấn, một quan niệm đời thường hơn về việc viết văn, coi viết cũng là một dạng thông tin đời sống bổ sung cho nghệ thuật, và chấp nhận những nội dung khác biệt như các vấn đề nghệ thuật và cái liên quan tới nó như một hàm nghĩa mới của văn chương, đã và sẽ thúc đẩy một tầng lớp “không chuyên” trong văn học với những bất ngờ chưa đoán trước.

Ước mong một thế hệ nhà văn đa văn hóa

Cuộc gặp gỡ của nhà văn Pháp gốc Việt Linda Lê với độc giả Việt Nam ở cả Hà Nội, Huế, Sài Gòn hồi trung tuần tháng 10 năm 2010 là sự kiện quan trọng, cho thấy mối quan tâm đặc biệt của chính nhà văn và độc giả trong nước tới tương quan giữa bản sắc cá nhân, riêng lẻ, khác biệt, với cái “xa lạ kỳ lạ” của những nền văn hóa khác, cũng như cái rộng lớn mênh mông của tri thức. Để thâm nhập và “đồng hóa” người xa lạ kỳ lạ và tự mình trở thành một bản sắc của tri thức rộng lớn, điều cần thiết là rũ bỏ định kiến bị áp đặt từ những lực lượng lấn át trong đời sống của toàn thể nhân loại cũng như rũ bỏ định kiến về cái nhược tiểu, “lạc lõng” và bé mọn.

Càng ngày, các vị trí quan trọng của nền văn chương thế giới càng được gánh vác bởi những nhà văn đa văn hóa: J. Brodsky, Philip Roth, S. Naipaul, Samal Ruddie, Cao Hành Kiện, Orhan Pamuk, A. M. Llosa…

Các nhà văn gốc Việt như Linda Lê, Nam Le, đã tạo ra tiếng nói văn chương mang giá trị của nhiều nền văn hóa, và đó là cách đáng kể nhất để chinh phục thế giới rộng lớn bằng bản sắc của họ.

Cùng với việc lựa chọn một ngôn ngữ lớn mạnh như Anh, Pháp, Latin, các nhà văn đa văn hóa luôn thừa nhận ý nghĩa hai mặt của một bản thể hay gốc tích: một mặt, là những di truyền quý giá về tinh thần, mặt còn lại, những định kiến bảo thủ, sự áp chế mà họ luôn nhận thấy cần phải phê phán một cách trực diện và quyết liệt.

Việt Nam có nhiều thế hệ sinh sống và làm việc trong các quốc gia có những nền văn hóa lớn, thế hệ vì những biến cố lịch sử xã hội, thế hệ du học sinh thời điểm hiện tại, thế hệ những người sinh ra và lớn lên, tiếp thu hoàn toàn nền giáo dục “bản ngữ” Anh, Pháp… Trong số đó, từng và sẽ có nhiều người chọn viết văn làm sự nghiệp để cống hiến về mặt tư tưởng nhân sinh, triết lý văn chương cũng như nghệ thuật, dù họ có chọn tiếng Việt hay không.

Trong khi những người viết xuất phát tầng lớp du học sinh đa số dừng lại ở tâm trạng hồ hởi, niềm vui thích khi được tiếp xúc với những nét độc đáo, ý nghĩa thụ hưởng từ văn hóa “lạ” mang tới, thì những nhà văn đã có cuộc sống gắn bó với đất nước bao bọc họ, dù là từ những nguyên do sâu xa về tâm lý hay đơn giản chỉ vì được sinh ra và nuôi dưỡng bằng ngôn ngữ, văn hóa “bản địa”, có quan niệm sâu sắc hơn về hành trình của cá nhân đến với thế giới.

Những nhà văn có thể đồng thời thực hiện nhiều ngôn ngữ, nhưng vẫn tự nuôi dưỡng nhờ tiếng Việt: Diễm Châu (đã mất), Nguyễn Đăng Thường, Đinh Linh, Nguyễn Đức Tùng, Phạm Thị Hoài, Đỗ Kh., McAmmond Nguyen Thi Tu, Mai Ninh, Đặng Thơ Thơ, Phan Nhiên Hạo, Trần Thiện Huy, Lưu Diệu Vân…

Tiếng Việt của họ giàu phức cảm, lạc quan, trẻ trung, gia tăng ý nghĩa khoa học và được làm trong sáng gọt giũa hơn nhờ kết hợp kỹ năng của ngôn ngữ khác. (Phần cống hiến cho ngôn ngữ khác của các nhà văn này là một vấn đề liên quan nhưng chưa đủ điều kiện đề cập trong bài viết này).

Trở ngại đối với họ, có lẽ là để chuyển từ tâm thức của một ngôn ngữ hẻo lánh như tiếng Việt, hoàn toàn bước sang tâm thức của một thứ ngôn ngữ bao trùm hơn hẳn, mà vẫn giữ gần trọn vẹn những độc đáo dị biệt di truyền từ nguyên bản. (Thế hệ nhà văn hoàn toàn sinh ra và lớn lên ở nước ngoài có lẽ sẽ không gặp phải khó khăn này, nhưng vấn đề của họ hoàn toàn khác).

Không sống trong bầu sinh quyển đa văn hóa, nhưng một số nhà văn, nhà thơ tích cực và năng động nhất sống trong nước vẫn gắng sức một cách cảm động để thấm hút, cập nhật những biến chuyển về tư duy nghệ thuật của văn chương thế giới. Có những người vẫn liên tục mới mẻ suốt nhiều năm trở lại đây như Trần Tiến Dũng, Nguyễn Nguyên Phước (ở mức độ nghề nghiệp khác nhau)… Những người tự làm mới mình bằng nhiều cách thức, làm mới tiếng Việt bằng những giá trị kể cả từ bề dày quá khứ lẫn đương đại: Trần Hữu Dũng, Lê Vĩnh Tài, Bùi Chát, Đỗ Quyên, Mai Văn Phấn, Đinh Thị Như Thúy, Phạm Tường Vân, Nguyễn Thúy Hằng, Nhã Thuyên… Dù ở nhiều cấp độ khác nhau trong nghề nghiệp, mức độ tài năng khác nhau, nhưng họ cùng hướng tới ý thức về một thứ văn chương rộng lớn bao gồm những ý nghĩa sâu sắc về con người và kiếm tìm giá trị cao của nghề nghiệp.

Một nhà văn nào đó có viết về sự tiến bộ, đó là tiến bộ không chỉ chạy theo cái đã vượt trước, (hàm ý văn hóa Tây phương) mà còn bao hàm cả những giá trị theo nhiều chiều hướng khác, sự tiến bộ bao hàm nhiều bản sắc và khuynh hướng của nhiều không gian văn hóa khác nhau.

Thành tựu mà văn chương Việt đang chờ đợi, có lẽ nên hy vọng gửi gắm ở bản lĩnh văn hóa xuất phát từ sự trung thực và sòng phẳng của tâm thức Việt, để đến với những gì rộng lớn hơn…

Ngày 31 tháng 12 năm 2010
K.P
(264/2-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.