Văn chương trước hết và cuối cùng là chuyện về con người, về sự sống

10:20 29/08/2011
NGUYỄN VĂN HẠNH …Xa rời cuộc sống, xa rời con người, xa rời chủ nghĩa nhân văn vốn là linh hồn của văn học nghệ thuật trong sáng tạo, nghiên cứu, giảng dạy văn chương là mối lo lớn và là nguyên nhân sâu xa khiến cho văn chương mất sức sống, mất sức hấp dẫn vốn có…

Ztvetan Todorov - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

I. Văn chương lâm nguy (La literature en peril) của Ztvetan Todorov

Đây là quyển sách về lý luận văn học hay đúng hơn về phương pháp luận nghiên cứu văn học của nhà văn, nhà triết học Bungari nổi tiếng, do Nhà Flammarion xuất bản năm 2007, được Trần Huyền Sâm và Đan Thanh dịch và Trung tâm Quốc học ấn hành năm 2011, trình bày về sự vận động và thực trạng nghiên cứu văn học ở phương Tây từ thời cổ đại sang hiện đại, nêu lên những cách tiếp cận khác nhau đã được thực hiện trong lịch sử nghiên cứu văn học, đặc biệt nhấn mạnh cái khuynh hướng mà ông xem là không ổn, đáng lo ngại trong nghiên cứu văn học và trong giảng dạy văn học ở đại học trong mấy thập kỷ qua đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc dạy và học văn ở phổ thông như thế nào. Những nhận xét, đánh giá của tác giả nói chung đều có cơ sở, gắn với một thái độ phê bình và tự phê bình sâu sắc, đầy trách nhiệm và có sức thuyết phục. Tôi nghĩ đây là một quyển sách đến với chúng ta đúng lúc, có thể gợi mở nhiều điều bổ ích cho nghiên cứu và giảng dạy văn học hiện nay.

Theo tác giả, chỗ không ổn, chỗ đáng lo ngại nhất trong nghiên cứu và giảng dạy văn học hiện nay là coi nhẹ, không thấy hết tầm quan trọng ý nghĩa của văn chương vốn nằm ở bản chất nhân bản, nhân văn của nó, do lẽ tồn tại của văn chương là suy ngẫm về con người, làm cho con người hiểu chính mình và người khác, là cuộc giao lưu phong phú, kỳ lạ, bất tận giữa những con người với nhau. Rất có thể có người coi đó là một ý kiến cũ kỹ, lỗi thời, không đáng bận tâm, nhưng từ hiểu biết, kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy văn học mấy mươi năm qua, tôi đánh giá cao quan niệm thức thời và khôn ngoan này.

Nhân đây, tôi muốn nói thêm một số suy nghĩ của mình về sáng tạo, nghiên cứu và giảng dạy văn chương, vì những lĩnh vực này liên hệ mật thiết với nhau, và điều khiến chúng ta lo lắng cho văn chương, nghĩ đến chuyện văn chương “lâm nguy” nằm trên cả ba lĩnh vực ấy.

II. Những bình diện của hoạt động văn học, của đời sống văn học

1. Sự sáng tạo văn chương, nhà văn tạo ra tác phẩm văn chương

Nhà văn tạo ra tác phẩm văn chương từ 3 nguồn cội: Từ cuộc sống; từ thành tựu của các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác nhau, như triết học, văn hóa, khoa học và từ chính truyền thống văn học đã qua; từ tình cảm, trí tuệ, khát vọng, óc tưởng tượng của bản thân nhà văn.

Nói đến tác phẩm là nói đến cả nội dung và hình thức, tư tưởng và nghệ thuật, phần chủ quan và khách quan, cái riêng và cái chung, sự thật và hư cấu, truyền thống và cách tân… Những mặt đối lập này gắn kết với nhau, bổ sung cho nhau, không thể nhấn mạnh mặt này mà bỏ qua mặt kia.

Sau một thời gian dài chỉ chú ý đến nội dung, tư tưởng, mà nội dung, tư tưởng cũng được nhận thức một cách hạn hẹp, cứng nhắc, thì việc quan tâm đến nghệ thuật, hình thức, kỹ thuật của văn chương là hợp lẽ, cần thiết. Nhưng từ đó đã xuất hiện một khuynh hướng đáng lo ngại trong sáng tạo văn chương hiện đại là chạy theo hình thức và kỹ thuật, coi nhẹ, thậm chí không quan tâm đến nội dung, tư tưởng, xa rời cuộc sống và con người, đề cao một chiều cái mỹ, bỏ qua hoặc coi thường cái chân, cái thiện, đào sâu thuần túy vào chủ quan và cá nhân người sáng tác, cắt đứt mối liên hệ với cộng đồng và thế giới rộng lớn bên ngoài. Một khuynh hướng sáng tác như vậy sẽ sớm đưa sáng tạo văn chương đến chỗ cằn cỗi, bế tắc và làm cho đông đảo người đọc xa lánh nó, không cần đến nó.

2. Nghiên cứu, tiếp cận hiện tượng văn chương, tác phẩm văn chương

Có nhiều cách tiếp cận, nhiều phương pháp nghiên cứu văn chương: chú ý mối liên hệ giữa văn chương và cuộc sống, văn chương và các hoạt động khác của con người, văn chương với cấu trúc và phẩm chất nội tại của nó, phần chủ quan và khách quan trong nghiên cứu văn chương, xem xét riêng biệt hoặc tổng hợp các mặt nội dung và hình thức, tư tưởng, nghệ thuật và ngôn từ của tác phẩm văn chương… Những cách tiếp cận khác nhau, những phương pháp nghiên cứu văn chương khác nhau không có gì đáng chê trách, mà trái lại đáng hoan nghênh, vì có như vậy mới phát hiện được mọi chiều kích thế giới phong phú, lạ lùng, bí ẩn của văn chương. Vào một thời điểm nào đó, trong những trường hợp cụ thể nào đó, có nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu hình thức, kỹ thuật của văn chương, ngay cả hình thành một trường phái chỉ nghiên cứu mặt hình thức, kỹ thuật của văn chương thì cũng là chuyện bình thường. Nhưng tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng, đáng báo động, khi chủ nghĩa hình thức tự quảng bá hoặc muốn được nhìn nhận là khuynh hướng ưu việt nhất, duy nhất đáng quan tâm, duy nhất có giá trị trong nghiên cứu văn chương thời hiện đại, khi nghiên cứu văn chương chỉ chú ý, đề cao một chiều việc nghiên cứu hình thức, kỹ thuật của văn chương, không quan tâm, thậm chí cho là cổ lổ, ấu trĩ việc nghiên cứu nội dung, tư tưởng, ý nghĩa nhân văn của văn chương, tách rời nghiên cứu với sáng tạo văn chương, và không ít trường hợp cái nổi lên trong công trình nghiên cứu chình là hình ảnh người nghiên cứu với những suy nghĩ, sáng kiến “độc đáo” của ông. Bình diện nghiên cứu có thể có ít hoặc nhiều giá trị, nhưng nhất thiết phải gắn với văn chương, không thể thay thế cho sáng tạo văn chương, cũng như không thay thế được sự tiếp nhận tác phẩm văn chương của từng người đọc.

Thái độ cần thiết đối với chúng ta lúc này là phải biết gạn lọc những mặt khả thủ trong các khuynh hướng hình thức được xem như một bộ phận của mảng nghiên cứu văn học ở phương Tây. Đồng thời, cần ý thức rõ rằng còn ba mảng nghiên cứu mà chúng ta phải chú trọng nghiên cứu để tiếp thu: Một là, mảng nghiên cứu theo quan điểm mác xít ; hai là, mảng nghiên cứu ở phương Đông ; ba là, mảng nghiên cứu ở nước ta trong quá khứ và trong hiện tại. Chúng ta cần nỗ lực đi sâu tìm hiểu và tiếp thu ba mảng nghiên cứu này vì giá trị đã được khẳng định và tiềm ẩn của chúng, vì sự gần gũi của chúng đối với chúng ta, nhưng thời gian qua do sa đà với các khuynh hướng nghiên cứu hình thức ở phương Tây, chúng ta đã lơ là và có không ít thành kiến đối với các mảng nghiên cứu này.

3. Dạy văn, học văn

Quan tâm, chú trọng bình diện nào, yếu tố nào của tác phẩm, của hiện tượng văn chương trong dạy văn, học văn, phổ biến văn, điều này tùy thuộc vào ngành học, cấp học, người học, nhưng đối với học sinh phổ thông, đối với đông đảo người đọc, thì bình diện nội dung, tư tưởng, hình ảnh con người, cuộc sống, giá trị nhân văn phải được chú ý hàng đầu, vì những đối tượng này đến với văn chương chủ yếu là để hiểu ý nghĩa của văn chương và cuộc sống, để học cách sống, cách làm người.

Xa rời cuộc sống, xa rời con người, xa rời chủ nghĩa nhân văn vốn là linh hồn của văn học nghệ thuật trong sáng tạo, nghiên cứu, giảng dạy văn chương là mối lo lớn và là nguyên nhân sâu xa khiến cho văn chương mất sức sống, mất sức hấp dẫn vốn có.Tôi muôn lưu ý ở đây một tư tưởng, một lời khuyên của Marx rằng khi bối rối, không tìm thấy lối ra trong nghiên cứu, thì cần trở lại cái cơ bản, cái gốc, mà cái cơ bản, cái gốc đối với con người chính là bản thân con người.Trong hoạt động tinh thần nói chung là vậy, trong văn chương càng nên như vậy.

III. Sự tiếp thu các học thuyết, trường phái, phương pháp nghiên cứu văn học phương Tây ở Việt Nam

Nhìn chung sự tiếp thu này là không có hệ thống, không triệt để, chủ yếu chỉ vận dụng một số luận điểm thích thú nào đó, có biểu hiện đi từ phủ nhận đến chấp nhận xô bồ, không có chọn lọc, không phản biện, phê phán. Trên bề mặt, có thể nói do cách tiếp thu này mà ảnh hưởng tiêu cực của các khuynh hướng hình thức, “hư vô”, “duy ngã” trong nghiên cứu văn chương phương Tây không ảnh hưởng thật sâu sắc và phổ biến trong đời sống văn chương ở ta, nhưng ở chiều sâu tình trạng “lâm nguy” ít hơn chính là do truyền thống của văn học dân tộc vốn rất nhân bản, nhân văn, rất “đời “ và do ảnh hưởng sâu đậm của quan điểm mác xít vốn coi văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, đặc biệt nhấn mạnh bản chất tư tưởng của văn chương, mối liên hệ sống còn của văn chương đối với con người và cuộc sống. 

TP HCM, 15/6/2011
N.V.H
(270/08-11)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.