Văn chương nhóm Việt

14:57 26/07/2010
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
Ý thức dấn thân nhập cuộc đã đưa các tác giả trẻ Nhóm Việt đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của người cùng khổ, người bị áp bức. Thế đứng đó đã khiến cho Nhóm Việt trở thành một trong rất ít tổ chức văn nghệ ở miền Nam đã bày tỏ tình liên đới đối với đồng bào mình.

Nhóm Việt nhập cuộc


Lực lượng nòng cốt đầu tiên của Nhóm Việt là sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế với những bước đi ban đầu: Hội Hồng Sơn và Phòng sinh hoạt giáo dục, văn học nghệ thuật. Và đến năm 1968, Nhóm Việt Tạp chí Việt ra đời (xuất bản được 5 số). Nhóm Việt đã đóng góp hàng trăm truyện ngắn, hàng nghìn bài thơ, chưa kể các bài phê bình, lý luận, biên khảo, các tác phẩm thuộc thể loại khác như nhạc, họa. Nhóm Việt đã nhập cuộc, “xuống đường”, có mặt trong “những đêm không ngủ”, “đoàn sinh viên quyết tử” và “hát cho đồng bào tôi nghe” tại các thành thị Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn. Nhóm Việt đã uỷ nhiệm Trần Hữu Lục phụ trách phần văn nghệ của tạp chí Đối Diện từ năm 1971 đến năm 1975. Một số tác phẩm của Nhóm Việt đã được tạp chí Đối Diện xuất bản như: Cách một dòng sông (tập truyện của Trần Hữu Lục), Rừng dậy men mùa (tập thơ của Đông Trình), Trước khi mặt trời mọc (tập truyện của Trần Duy Phiên).

Vào thời thanh xuân, những tác giả trẻ của Nhóm Việt đã có những hoạt động tích cực, trở thành một trong những trường hợp tiêu biểu về khuynh hướng hiện thực và cách mạng trong phong trào văn học yêu nước những năm tháng đó. Tác phẩm của họ đã được báo chí, đài phát thanh vùng giải phóng miền Nam và miền Bắc, các báo chí tiến bộ của Việt kiều như Thế Hệ, Tiền Phong (Canada), Sứ Mệnh (Nhật), Thức (Cộng hòa Liên bang Đức), Liên Hiệp, Gió Nội (Pháp)… in lại. Lực lượng Việt ngày càng chặt chẽ và phát triển, ảnh hưởng ngày càng rộng lớn và tính cách mạng ngày càng đậm nét. Nhóm Việt “không chỉ là lên tiếng, mà còn là lên tiếng một cách nghệ thuật”. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà văn, thơ Nhóm Việt đã nhiều lần được chọn vào các tuyển tập văn học trong hơn 20 năm qua. Với ý thức dấn thân trong một chọn lựa nghệ thuật, dẫu sau một khoảng cách 30 năm, vẫn mang ý nghĩa tinh khôi của nó. Sáng tác của mỗi tác giả trong Nhóm Việt, tuy hòa chung vào phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, nhưng đã sớm bộc lộ sắc thái, nét riêng rất dễ nhận biết của mỗi người.

Thơ văn Nhóm Việt

Dẫu sau một khoảng thời gian, ngày nay đọc hai tuyển tập “Truyện ngắn Việt” và “Thơ - Nhạc - Họa Việt” vẫn còn mang “ý nghĩa tinh khôi của nó”. Trong dòng văn hóa văn nghệ yêu nước tiến bộ giữa vùng địch tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam, có một lực lượng quan trọng là những sinh viên, học sinh đã “xuống đường” bằng trái tim và khối óc, sáng tác bằng tất cả tâm huyết của mình và đã có những cống hiến đầy ý nghĩa về phẩm cũng như về lượng tác phẩm cho nền văn học nghệ thuật cách mạng. Nhóm Việt là một tập hợp những người trẻ sáng tác văn học nghệ thuật của dòng văn nghệ yêu nước tại đô thị lúc ấy. Những cây bút của Nhóm Việt đã có phần đóng góp đáng kể. Sáng tác văn, thơ, nhạc, họa, biên khảo… của Nhóm Việt với ý hướng “về nguồn” đã được chọn in lại trong các tuyển tập Bút máu (1974), Mùa xuân chim én bay về, Tiếng hát những người đi tới, Văn học yêu nước, tiến bộ, cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn (1954-1975), Tuyển tập văn và Tuyển tập thơ (1945-1975) của Hội Nhà Văn TP. Hồ Chí Minh. Tháng 9-1997, Tuyển tập truyện ngắn Việt của sáu tác giả Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca (Tiêu Dao Bảo Cự), Võ Trường Chinh. Đọc văn của Nhóm Việt được tuyển chọn trong tuyển tập này, theo TS-Nhà văn Huỳnh Như Phương: “Chúng ta không chỉ đọc tuổi trẻ của họ mà còn đọc số phận nhân dân, số phận những người bị bức hại. Ý thức nhập cuộc đã đưa các nhà văn đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của những người bị thiệt thòi nhất trong xã hội miền Nam trước 1975” và “…Trong những điều kiện khắc nghiệt nhất của lịch sử, đã hình thành một tổ chức văn nghệ trẻ không chịu để cho ngòi bút của mình ngả theo xu hướng bợ đỡ các thế lực cầm quyền trong xã hội và không chọn con đường văn nghệ “viễn mơ” làm sự nghiệp - con đường chắc chắn sẽ đem lại cho người cầm bút một vị trí yên ổn và thuận lợi trước một công chúng thời thượng trong các thành thị bị tạm chiếm”. (Lời tựa - Tuyển tập truyện ngắn Việt - NXB Trẻ 1997). Tháng 12-1998, Tuyển tập Thơ Nhạc Họa Việt của 11 tác giả Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Đông Nhật, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Trường Sơn, Võ Quê… (thơ), Nguyễn Phú Yên (nhạc) và Bửu Chỉ (họa)… là những cây bút đã có một thời “tâm huyết đổ ra trên đầu ngọn bút chỉ là vi ti huyết quản nhưng trăm sông về biển, trăm ngàn vi ti huyết quản đã hợp thành dòng chảy tươi đỏ và đầy sức sống trong châu thân của người mẹ Tổ quốc Việt Nam” (Lời giới thiệu của NXB Trẻ, 12-1998).

Tuyển tập Thơ Nhạc Họa Việt gồm có 44 bài thơ, 10 bài hát, 10 bức tranh và bài viết của những người hoạt động cùng thời và những nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật. Viết về thơ Nhóm Việt có hai nhà nghiên cứu văn học Thạch Phương và Trần Thức, viết về nhạc có nhạc sĩ Tôn Thất Lập và giáo sư - nhạc sĩ Thế Bảo, viết về họa có nhạc sĩ - họa sĩ Trịnh Công Sơn và nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy. Và phần phụ lục: “Những chặng đường của Nhóm Việt” của hai nhà nghiên cứu Trần Thức và Hoàng Dũng. Những trang thơ, nhạc, họa trong Tuyển tập này đã được sáng tác trong những hoàn cảnh và thời điểm khác nhau. Hầu hết được sáng tác tại đô thị (giảng đường, hội thảo, xuống đường…) và một ít trong nhà tù và vùng giải phóng nên khá đa dạng trong tiếng nói nghệ thuật của Nhóm Việt.

Từ “sức bật của một đội ngũ cầm bút trẻ”, người làm thơ đã có ý thức sử dụng sáng tác của mình đi sâu vào quần chúng để phục vụ cho cuộc đấu tranh: Tố cáo tội ác kẻ thù, bảo vệ quê hương, đòi hỏi tự do, hòa bình, ca ngợi những cuộc lên đường, ý chí chiến đấu, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, không sợ hy sinh… Sáng tác của mỗi tác giả Nhóm Việt, tuy hòa chung vào phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, nhưng đã sớm bộc lộ sắc thái của mỗi người. Cái nét riêng ấy không chỉ là một thái độ dấn thân, nhập cuộc, chọn đường:

                        Ta mang trong tim một nguồn lửa cháy
                        Đáp lại lời quê hương
                        Đáp lại lời Tổ quốc
                        Vùng dậy.
                        Lên đường!
                                     (Thái Ngọc San - Tiếng gọi thanh niên)

mà còn là một niềm tin son sắt của tuổi trẻ:

                        Năm hai mươi tuổi khởi sự cuộc lên đường
                        Người thừa tự mang niềm tin lập quốc
                                                  (Trường Sơn - Cuộc lên đường)

và ca ngợi sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân, ca ngợi đất nước:

                        Tôi lắng nghe lịch sử bốn ngàn năm
                        Thoảng động trên tơ tiếng hát xa xăm
                        Có bước chân ta mở đường Nam tiến
                        Ào ạt gió rừng, vi vu sóng biển
                        Bát ngát đồng bằng, cao ngất Trường Sơn
                                                (Đông Trình - Tiếng đàn bầu)

                        Dưới túp lều hoang mẹ mở cửa đón con về
                        Đoàn con yêu gian nan giữ nước
                        Từ núi rừng về nối lại tình quê
                        Dòng máu hôm qua thắm màu cờ tổ quốc
                        Ngày mai đây nở thành hạt lúa vàng.
                                     (Tần Hoài Dạ Vũ - Chào mừng nắng mai -
                               Trong Tuyển tập Tiếng hát những người đi tới - 1993)

Cái sắc thái ấy còn biểu lộ ở một tình yêu rất cụ thể:

                        Tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên
                        Và những vườn hoa bưởi
                        Những vại nước lấm tấm bông cau
                        Cũng có mùi hoa gạo
                        Cho nên, tiếng bom nổ ở miền Bắc
                        Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động
                                           (Lê Văn Ngăn - Sóng vẫn đập vào eo biển)

Cả những hoàn cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng:

                        Bé thơ ơi,
                        Đừng khóc để lòng vui
                        Vắt cơm tù không đủ mặn bờ môi
                        Bé ngậm đỡ
                        Ngày mai ta trả lại
                        Giặc cùng đường
                        Giặc giam ta đói
                        Nhưng sợ gì lòng ái quốc ta no
                        Đêm nay mẹ cất tiếng hò
                        Vẳng trong lời mẹ con đò đưa quân
                                    (Võ Quê - Cho người bạn tù sơ sinh)

Đọc thơ của tác giả Nhóm Việt, nhà nghiên cứu văn học Trần Thức đã cảm nhận “Độ nóng toát ra từ chất liệu nghệ thuật. Có thể nói, trong thơ của họ, lửa là chất kết dính mọi cảm hứng sáng tạo với hình thức biểu hiện”. Đấy là ngọn lửa ấm nồng, có lúc hừng hực, giục giã, có khi phẫn nộ, và không ngừng nung nấu niềm tin và hy vọng, dù phải đương đầu với những thử thách khốc liệt, thậm chí phải trả giá cho sự chọn lựa bằng chính sinh mệnh của mình. Âm hưởng tráng ca vẫn là âm hưởng chủ đạo thổi xuyên suốt các tác phẩm Nhóm Việt. Và người đọc phải luyện cho mình cách “đọc giữa hai hàng chữ” mới hiểu được tấm lòng của tác giả.

Về mặt nghệ thuật, những Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Võ Quê, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc… đã định hình phong cách ngay từ trên chiến hào, lúc xuống đường, hay trong lao tù… Các tác giả Nhóm Việt đã góp một giọng rất riêng trong dòng văn học yêu nước cách mạng. Những bài thơ ngày ấy vẫn còn lan tỏa ngày nay. Có thể kể đến Hạo khí ca, Hoa đã hướng dương (Đông Trình), Chào mừng nắng mai (Tần Hoài Dạ Vũ) Sóng vẫn đập vào eo biển, Vì sao những lời quyết liệt (Lê Văn Ngăn), Tiếng gọi thanh niên, Lòng ngưỡng mộ (Thái Ngọc San), Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa, Cho người bạn tù sơ sinh (Võ Quê), Mẹ phù sa (Trần Phá Nhạc)…

Âm hưởng tráng ca đó cũng là âm hưởng chủ đạo trong các bài hát Thuyền em đi trong đêm, Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa (phổ thơ Võ Quê), Tiếng gọi thanh niên (phổ thơ Thái Ngọc San). Sài Gòn ơi, vùng lên của Nguyễn Phú Yên, qua đường nét mạnh mẽ mà dứt khoát, sắc sảo mà lay động trong các bức tranh Phận người, Ngọn Hòa bình, Mẹ Hòa bình, Một tuổi thơ chưa kịp lớn, Hãy cùng bay lên với khát vọng… của Bửu Chỉ. Vào thời điểm ấy, tranh của Bửu Chỉ đã được in lại trên nhiều tờ báo tiến bộ ở nước ngoài. Tất nhiên, bên cạnh những quả chín vẫn còn những quả còn xanh, vẫn còn một ít bài thơ, câu thơ của “văn nghệ phong trào”.

Đọc thơ văn Nhóm Việt để sống lại một thời lịch sử tuyệt đẹp và đáng ghi nhớ. Ở đấy, “tiếng nói giàu chất trữ tình, giàu tính chiến đấu” cũng là “hơi thở của lớp trẻ Việt Nam”, những người đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình, đồng hành đi tìm và vươn tới mùa xuân vĩnh cửu của đất nước.

Trong điều kiện sống và viết vô cùng nghiệt ngã, trong lúc sinh mệnh của người cầm bút chân chính luôn luôn bị đe dọa, nhiều khi người đọc phải luyện cho mình cách “đọc giữa hai hàng chữ” mới hiểu được tấm lòng tác giả. Từ Hồng Sơn đến Việt là một chặng đường biết bao gian nan thử thách, Nhóm Việt gần như là nhóm văn học nghệ thuật duy nhất tồn tại lâu dài đến như vậy trong phong trào đấu tranh đô thị ở miền Nam. Phần lớn anh em Nhóm Việt hiện nay đang tiếp tục phát huy ngòi bút của mình. Nhóm Việt đã có những nhà thơ, nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (Đông Trình, Võ Quê, Lê Văn Ngăn, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ), hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam (Bửu Chỉ), Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Nguyễn Phú Yên).

Có một thời thanh xuân, Nhóm Việt đã dấn thân như thế.

T.H.L
(257/7-10)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.