Văn bia Cô đàn làng La Vân Thượng

14:29 03/12/2020


VÕ VINH QUANG

Cô đàn

1. Cô đàn (Đàn tế cô hồn) - một thiết chế thờ tự đậm nét nhân văn

Xứ Thừa Thiên, nơi hội tụ và giao thoa giữa nhiều trầm tích văn hóa. Sự cộng cư hòa hợp giữa các tộc người (người bản địa thuộc các cộng đồng dân tộc Chăm, người Phương Bắc trên con đường Nam tiến di cư vào…) tạo nên một bản sắc độc đáo vừa riêng lại vừa chung đối với truyền thống văn hóa tộc người trong toàn xứ. Cũng bởi thế, các triều đại nhà Nguyễn (1558 - 1945) từ lúc tiếp cận và cai quản vùng đất này đều luôn quan tâm đến mọi mặt của đời sống con người toàn xứ sở, nhất là đạo lý, nhân văn trong việc phụng thờ, tế tự, phối hưởng một cách hài hòa giữa các tộc người, không phân biệt thân sơ.

Trong triều đại các vua Nguyễn trị vì (1802 - 1945), việc lập đàn miếu từ trung ương đến địa phương đều được triều đình quan tâm nhất mực. Công việc tạo dựng các miếu thờ thần (nhiên thần, thiên thần, nhân thần), miếu thờ các vị công thần có công với nước (khai quốc công thần, trung hưng công thần, trung tiết công thần…) đi đôi với việc xây dựng các nghĩa trủng 義塚 (nghĩa địa, nghĩa trang) và cô đàn 孤壇 (đàn tế cô hồn/ âm hồn) ở khắp các làng xã… không ngừng được đẩy mạnh và ghi chép cụ thể vào Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (gọi tắt: Hội điển). Sau sự kiện Thất thủ kinh đô (1885), các đàn tế âm hồn, đàn tế chiến sĩ trận vong… cũng tiếp tục được dựng xây khắp nơi trong cả nước.

Lẽ dĩ nhiên, những đàn tế sau năm 1885 ấy là sự tiếp nối truyền thống nhân văn tốt đẹp của ông cha, đã được triều đình nhà Nguyễn quy định từ trong Hội điển. Chẳng hạn, sách Hội điển, phần Bộ Lễ, quyển 91: Tế các đền các miếu I, mục “Tế âm hồn” có đoạn: “Gia Long năm thứ 2 (1803), chuẩn định ở kinh và các địa phương đều làm đàn ở mãi phía bắc bên ngoài thành, hằng năm cứ ngày mồng ba tháng quí xuân, quí đông đến tế, nếu gặp ngày cấm kỵ thì lùi lại sau 3 ngày, đàn sở thì đặt bài vị thành hoàng ở trên, hai bên tả hữu đều đặt bài vị “vô tự quỉ thần: (quỉ thần không người thờ tự), lễ phẩm 3 con dê, 3 con lợn, 2 phương gạo nếp làm xôi, 3 phương gạo cơm cháo, ở kinh thì quan ở doanh Quảng Đức, ở ngoài thì quan các địa phương khâm mạng làm lễ1. Như vậy, rõ ràng triều đình nhà Nguyễn rất ý thức chăm lo đến đạo lý nhân bản, yêu thương chia sẻ và đồng điệu Âm - Dương, thuộc truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.

Cho đến nay, sau nhiều biến thiên của lịch sử, của thời cuộc, ngoại trừ một số đàn tế âm hồn ở trong và ven kinh thành (như Đàn tế Âm hồn ở đường Ông Ích Khiêm, miếu Âm hồn ở ngã ba Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tôn, miếu Âm hồn ở Cống Chém, Đàn tế cô hồn làng Vỹ Dạ và nghĩa trang tập thể tại chùa Ba Đồn…), thì các cô đàn tại các làng xã trong toàn tỉnh chỉ còn tồn tại lẻ tẻ.

Một trong những cô đàn còn bảo lưu rất tốt quy mô kiến trúc, là nơi chức sắc làng La Vân thường xuyên tiến hành các buỗi lễ tế hằng năm chính là cô đàn làng La Vân Thượng - xã Quảng Thọ - huyện Quảng Điền - tỉnh Thừa Thiên Huế. Điểm thú vị tại đây không chỉ quy mô đàn tế bề thế, đẹp đẽ mà còn hiện diện một tấm bia ký ghi chép về công đức của dân làng La Vân Thượng trong việc phục dựng lại đàn tế âm hồn ở làng mình.
 

Ảnh tấm bia đá xây dựng cô đàn nằm ở cột trụ


2. Văn bia cô đàn làng La Vân Thượng

Có dịp đi về hướng Hương Cần - Niêm Phò - Sịa, chúng ta sẽ đi ngang ngôi làng La Vân Thượng (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền). Ngôi làng này có con đường tỉnh lộ chạy song song với một nhánh sông nhỏ của dòng Bồ giang. Ở gần sát đường đi (khoảng giữa làng), ta sẽ thấy một đàn tế cô hồn (Cô đàn) bề thế, trang nghiêm, hướng chính diện nhìn thẳng ra bờ sông phía trước.

Đây là một trong số ít những cô đàn quy mô bề thế chúng tôi biết được ở các làng tại Thừa Thiên Huế. Chỉ tiếc rằng không hiểu vì nguyên do gì, 2 tấm bia đá (gồm 1 tấm bia không thấy chữ, 1 tấm bia ghi chép công đức xây dựng cô đàn) lại nằm chỏng chơ mé cạnh trụ biểu trước cô đàn, mặc gió sương dãi dầu năm tháng. Nay chúng tôi xin cung cấp bản dịch văn bia công đức tạo dựng cô đàn này.

Hán văn2:

Dịch nghĩa:

[VĂN BIA CÔ ĐÀN, LÀNG LA VÂN THƯỢNG]

Quốc gia thì có nghĩa trủng3, ấy là điển lệ lớn! Ở làng mạc thì có cô đàn4 (đàn tế cô hồn), là ân trạch sâu dày vậy. Xã ta trước nay còn thiếu sót chuyện này! Vào tháng 7 (mạnh thu) năm Quý Sửu (1913), [dân làng] cùng họp tính việc tạo dựng cô đàn để cúng tế những linh hồn không chốn phụng thờ. Xây dựng đã xong, bèn sai viên quản việc ghi chép .

Ôi, các vong linh xa quê, hồn đêm hiện hữu. Nếu là những người đều trú ngụ mãi trong xã ta thì tức đều là người thân thích của họ tộc ta cả. Tang thương chi khiến để [linh hồn ấy] mãi dằng dặc trong cõi mộng! Tuy nói “sống ở thác về”, nhưng khí tượng anh linh hẳn cứ đầy rẫy nơi khoảng Trà sơn Bồ thủy5. Ấy nên, sự lạnh lẽo ở họ do đó vẫn còn vậy. Chẳng làm được một trú sở để tế tự phụng thờ, thì họ đâu rõ ai là chủ nhân để mà nương náu. Từ [mục đích đó], quan Tiên chỉ của ta là Phó Lãnh binh Phan công đề khiến ra việc [dựng cô đàn] này, mà quý hương thân, hào trưởng cùng dốc sức hoàn thành công việc. Nét son điểm xuyết, hương hỏa muôn đời, thờ phụng rõ bày, hồn thiêng thỏa ý. Ôi, từ nay về sau, việc mưu tính sinh tồn không hề còn chút hối tiếc nào. Các hương hào trong làng có tấm lòng công đức đóng góp, hỗ trợ bao gồm họ tên cụ thể liệt kê như sau. Kê:

- Quan viên phụng cúng ngân tiền dưới đây:

Phó Lãnh binh Phan đại nhân cùng phu nhân: 15 đồng; Thành Thủ úy Chế Văn Dần: 2 đồng; Cửu phẩm Trần Viết Ninh cùng chánh thất: 15 đồng. Đội trưởng Phan Tuân: 7 đồng. Thượng hạng Học sinh Tú tài Trần Viết Uyển: 7 đồng. Đội trưởng Chế Văn Thành: 4 đồng. Quan viên tử Phan Hữu Thái: 4 đồng. Đội trưởng Phan Văn Suất: 2 đồng. Đội trưởng Phan Văn Khán: 1 đồng.

- Các vị Tòng chức phụng cúng ngân tiền dưới đây:

Thủ bộ Phan Hợp: 2 đồng. Lý trưởng Nguyễn Chức: 2 đồng. Cấp bằng Nguyễn Kiều: 2 đồng. Thập trưởng Phan Phù: 2 đồng. Tù sự Phan Quế: 1 đồng. Tập binh Nguyễn Vịnh: 1 đồng. Đốc kiểm Nguyễn Dương: 1 đồng. Kinh binh Nguyễn Kiệm: 1 đồng. Ấp trưởng Trần Toại: 1 đồng. Viên tử Chế Thi: 1 đồng. Viên tử Chế Ngôn: 1 đồng. Viên tử Chế Khiêm: 1 đồng. Viên tử Phan Tuyển: 1 đồng. Viên tử Phan Phúc: 1 đồng.

- Các vị Hương lão phụng cúng ngân tiền dưới đây:

Nguyễn Khanh: 1 đồng. Trần Đạo: 1 đồng. Phan Quyến: 1 đồng. Phan Yến: 1 đồng. Phan Hòe: 5 hào.

- Các vị Lưỡng sưu phụng cúng ngân tiền dưới đây:


Thư lại Nguyễn Hoành: 7 đồng. Thủ phiên Phan Liên: 7 đồng [liệt kê 15 vị cúng tiền từ 1-2 đồng, xin lược].

- Nhất Hương nữ phụng cúng ngân tiền dưới đây:


Chánh thất của ông Thượng hạng Học sinh Tú tài Trần Viết Uyển là Nguyễn Thị Xích: 4 đồng... [phần liệt kê 15 bà cúng tiền từ 1 - 2 đồng, xin lược].

- [Hương] tôn phụng cúng ngân tiền dưới đây:

Bang tá Lê Đình (?) và bà vợ Nguyễn Mua: 5 đồng. Trước tác Tôn Thất Lượng và vợ Trần Thị Khang: 2 đồng. [liệt kê 10 vị cúng tiền từ 1 - 2 đồng, xin lược].

Ngày 01 tháng 8 năm Duy Tân thứ 7 (1913).

Đề khiển là Phó Lãnh binh Phan Hữu Xuân; Phụng sung Đổng biện là Cửu phẩm Trần Viết Ninh; Phụng sung Thị sự là Viên tử Phan Hữu Huề; Phụng sung Chuyên biện là Thư lại Nguyễn Hữu [......].

3. Một số luận bàn (thay lời kết luận)

Cùng với cô đàn làng La Vân Thượng, bản văn bia ghi công đức tạo dựng cô đàn này có giá trị cao không chỉ đối với lịch sử hình thành và tồn tại của chiếc đàn tế cô hồn ở ngôi làng này, mà còn là cứ liệu thực chứng cho thấy tính nhân văn đậm nét trong truyền thống văn hóa của cư dân La Vân Thượng nói riêng, Thừa Thiên nói chung, nhất là tấm lòng hướng về vong linh, cô hồn tha hương: “Ôi, các vong linh xa quê , hồn đêm hiện hữu. Nếu là những người đều trú ngụ mãi trong xã ta thì tức đều là người thân thích của họ tộc ta cả. Tang thương chi khiến để mãi dằng dặc trong cõi mộng! Tuy nói “sống ở thác về”, nhưng khí tượng anh linh hẳn cứ đầy rẫy nơi khoảng Trà sơn Bồ thủy. Ấy nên, sự lạnh lẽo ở họ do đó vẫn còn vậy. Chẳng làm được một trú sở để tế tự phụng thờ, thì họ đâu rõ ai là chủ nhân để mà nương náu. (Văn bia).

Người Huế hiện nay thường coi ngày 23/5 âm lịch hằng năm là ngày cúng vọng các cô hồn đã khuất. Điều đó gắn liền với biến cố thất thủ Kinh đô (23 tháng 5 năm Ất Dậu [1885]) đầy đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ gói gọn câu chuyện cúng tế cô hồn vào biến cố Ất Dậu thì không hẳn đã hợp lý. Bởi lẽ, truyền thống văn hóa đầy nhân bản của người Việt ta có ý nghĩa bao quát, rộng lớn hơn. Đó là truyền thống biết ơn và hoài vọng đối với những người khuất mặt khuất mày, những trận vong chiến sĩ, những người đã từng hiện diện ở mảnh đất này và khi qua đời thì không nơi nương tựa. Các vong linh đó đã có từ nhiều đời nay, và đàn tế cô hồn là nơi để hội tụ tất cả họ, được nhân dân quan tâm phụng thờ tế tự. Căn cứ vào nội dung của văn bia này cùng những quy định trong Hội điển (ngày 03 tháng quí xuân [tháng 03 âm lịch] và mồng 3 quí đông [tháng chạp âm lịch]), chúng tôi cho rằng cần nhìn nhận lại việc cúng tế cô hồn trong lịch sử, để phù hợp hơn với tín ngưỡng văn hóa đặc sắc đầy nhân bản của người Việt từ xa xưa.

Đối với làng La Vân Thượng, Cô đàn (Đàn tế cô hồn), đình làng La Vân Thượng và ngôi chùa Trùng Quang là 3 thiết chế tín ngưỡng in đậm nét trong ý niệm văn hóa của dân làng. Cũng bởi thế, việc giữ gìn những giá trị tư liệu vật thể và phi vật thể (như văn bia Cô đàn, chuông chùa Trùng Quang, gia phả các tộc họ…) là điều hết sức cần thiết để góp phần khẳng định dấu ấn và giá trị văn hóa của ngôi làng này trong lịch sử văn hóa xã hội của địa phương và đất nước. Tấm bia đá ghi dấu công đức quý báu của các bậc tiền bối làng La Vân đóng góp vào việc xây dựng ngôi cô đàn khang trang đẹp đẽ như bây giờ, thế nhưng hiện tại chỉ nằm nép bên cột đá cổng Cô đàn, và hiện đã bị sứt mẻ nhiều phần trên phiến đá. Chúng tôi thiết nghĩ nên chăng cần có sự đầu tư vừa phải, hợp lý, để dựng lại tấm bia đá này. Đó cũng là một cách ứng xử tốt đẹp nhất đối với truyền thống văn hóa của ông cha.

V.V.Q 
(SHSDB38/09-2020)

-----------------
1. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Bản dịch viện Sử học) tập 6, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.470.
2. Vì bài văn bia khá dài nên chúng tôi xin lược bỏ phần phiên âm.
3. Nghĩa trủng 義塚: khu mộ do quan phủ hoặc các nhà quyền quý cung nạp cho trăm họ, dành để mai táng những thi hài chết đường chết sá không nơi nương tựa, hoặc nghèo khó không có đất chôn.
4. Cô đàn孤壇: đàn cúng tế cô hồn.
5. Trà sơn Bồ thủy茶山蒲水: núi của Hương Trà sông Bồ (từ nguồn Sơn Bồ chảy về Thủy Đảo, Dược Trường qua Cổ Bi, Hiền Sĩ xuống đến ngã ba Quai Vạc (Bác Vọng Đông). Từ ngã ba Quai Vạc thì chia nhiều nhánh, trong đó có nhánh đổ xuống quanh co qua Phúc Yên, Lương Cổ, La Vân Thượng, La Vân Hạ…)  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO CHÍ HẢI  

    Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.

  • MAI VĂN HOAN

    Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi.

  • TRẦN ĐÌNH BA

    1. Lược sử, ý nghĩa lệ cày ruộng tịch điền
    Trước hết, chúng ta phải khẳng định một sự thật hiển nhiên rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, hay nói như lời nhà Nho Phan Kế Bính (1875 - 1921) có đề cập trong Việt Nam phong tục, thì đó là một “Nông quốc”1, quốc gia lấy nông nghiệp làm gốc.

  • CAO THỊ HOÀNG  

    1.
    Mùi bùn non từ cửa sông theo gió chướng lộng về, tôi ngây ngây mùi nhớ! Cái mùi nhớ đôi lúc bâng khuâng và cũng lắm khi, rịt chặt tâm hồn kẻ hậu sinh với tiền nhân thuở trước. Tôi quay lại Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Trong số những đối tượng được thờ cúng và được xem là phúc thần của nhiều làng xã vùng Huế, thì Khai canh, Khai khẩn là một thần hiệu ra đời khá muộn. 

  • VĨNH AN

    Sự nhẹ nhàng của tính cách sẽ khiến doanh nghiệp (DN) Huế dễ gần gũi với khách hàng hơn; sự chu đáo trong cuộc sống khiến khách hàng có cảm giác được DN Huế quan tâm hơn; lòng yêu thiên nhiên và nếp sống hòa hợp với thiên nhiên sẽ khiến khách hàng yên tâm về sự phát triển xanh và bền vững hơn của DN Huế… Và đó chính là lợi thế của DN Huế, là đặc tính văn hóa nổi bật của DN Huế.

  • TRUNG SƠN

    I - Lời nhắc nhở của nhà văn Nguyễn Tuân.
    Nhà Văn Nguyễn Tuân là người cẩn thận và độc đáo trong việc dùng chữ nghĩa. Vậy nên nhắc đến "cụ", trước hết phải có đôi lời về cái đầu bài.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nơi thờ chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.

  • TRƯỜNG AN     

    “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất trắng trời…”

  • PHƯỚC VĨNH

    Du lịch dịch vụ đang được xác định là mũi tàu xanh của con thuyền rẽ sóng ra biển lớn của Thừa Thiên Huế. Làm sao để mỗi công dân đang sống ở miền sông Hương núi Ngự, ngay từ nhỏ đã được khơi gợi ý thức về việc tạo nên sản phẩm du lịch và triển khai ý tưởng đó, với một ý thức văn hóa Huế đã ăn sâu trong tiềm thức… 

  • VÕ VINH QUANG

    Tộc Nguyễn Cửu và những dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn hóa xứ Thần Kinh

  • NGUYỄN THƯỢNG HIỀN

    Sau đêm binh biến Thất thủ Kinh đô, kinh thành Huế ngập chìm trong máu lửa, tiếng khóc than. Những dãy nhà gỗ, mái tranh chạy dọc hai bên đường Đông Ba đến giáp hoàng cung ngập chìm trong biển lửa. Bọn Tây tay súng, lưỡi lê hàng ngang tha hồ tàn sát quân dân ta.

  • NGUYỄN CAO THÁI

    “Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Có lẽ không ít lần chúng ta đã nghe nói đến hai dạng thơ Song điệpSong thanh điệp vận của thể thơ Thất ngôn luật Đường, trên thi đàn Việt. Vậy chúng là những kiểu, dạng thơ như thế nào, và quan hệ giữa chúng ra sao?

  • HOÀI VŨ

    * Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
    Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.

  • THẢO QUỲNH

    Quyết Chiến là tờ nhật báo đầu tiên của cách mạng xuất bản ở Huế sau Cách mạng Tháng Tám, là cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng, tiếng nói của Đảng bộ Việt Minh Thuận Hóa và của tỉnh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên). Mới đây, đọc lại một số báo Quyết Chiến, chúng tôi tìm thấy một số thông tin liên quan đến Ngày Khỏe vì nước đầu tiên của Huế vào giữa năm 1946. Xin trích dẫn lại để bạn đọc tham khảo:

  • Thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã đẩy mạnh các chương trình trọng điểm để tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh mọi mặt kinh tế - xã hội. Mỗi chương trình trong chuỗi các chương trình lớn, như là một căn nền tạo lực nâng cho tương lai.

  • Kỉ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

    THANH BIÊN (*)

  • NGUYỄN THÀNH

    Kỷ niệm 60 năm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế (1957 - 2017)