DÃ LAN - NGUYỄN ĐỨC DỤ
Cách đây mấy năm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội có cho phát hành cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (1983 - 1984). Sách gồm hai tập: tập I và tập II đầy cả ngàn trang, với sự cộng tác của nhiều tác giả.
Ảnh: sachxua.net
Đây là một tác phẩm khảo cứu về văn học công phu, chiếm kỷ lục lớn về số nhân vật nêu trong sách? So với một số sách của Nhà xuất bản KHXH phát hành trên mười năm nay: Tìm hiểu kho sách Hán-Nôm, Thơ văn Lý-Trần, Từ điển các tác giả và sân khấu..., cuốn Từ điển Văn học (TĐVH) nổi bật hơn hết? Trội ở sự sưu khảo công phu của Ban biên tập - mặc dầu khoảng thời gian đặt ra chưa cân xứng với tầm vóc của tác phẩm - đã giúp ích về nhiều mặt cho các nhà chuyên khảo cứu văn-học-sử.
Với số lượng nhà văn nhà thơ rải rác từ đầu sách tới cuối sách cùng với nhiều chuyên đề dồi dào súc tích, hỏi người Việt Nam nào lại không tự hào và hãnh diện về Tổ quốc, về giống nòi thân thương của mình? Nếu nói rằng TĐVH là một tuyệt phẩm thì cũng không có gì là quá đáng và phải công nhận rằng từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì đây là một công trình biên khảo độc nhất vô nhị, một tác phẩm văn học có giá trị.
Tuy nhiên, đã có khen thì phải có chê, như vậy mới đúng lẽ. Trước hết chê để xây dựng. Chê để góp ý, để khi sách có điều kiện tái bản - niềm hy vọng chung của mọi người - vốn đã có giá trị lại càng có giá trị hơn. Chắc có không ít người sẽ mỉm cười: chuyện đã cũ mèm từ đời nào bây giờ mới góp ý. Sao không để cho nó qua luôn cho được việc để đỡ tốn giấy mực? Đúng như vậy; chuyện đã cũ mèm nhắc lại làm chi. Nhưng gần đây, nhân dịp ra Bắc thăm quê, kẻ viết bài này được các văn hữu, cho hay là cuốn TĐVH có khả năng được tái bản và "có sự bổ sung". Nếu đúng thì âu cũng là một tin vui và lần tái bản này chắc chắn cuốn TĐVH sẽ có nhiều sắc thái độc đáo hơn đem lại cho người đọc những gì hợp với ý mong muốn có một tác phẩm đượm đà tính dân tộc. Vô tư mà nói, nội dung của tác phẩm cũng nên được Ban biên tập xem xét lại những chỗ chưa hợp lý cũng như nghiên cứu lại xem phần nào cần bổ sung, phần này nên lược bớt. Thật ra với một tác phẩm dày tới cả ngàn trang tránh sao khỏi những sơ sót về chi tiết, song đó chẳng qua cũng chỉ là đôi ba vết nhỏ trong một viên ngọc quý đâu có đáng kể gì...
Sau đây tôi xin mạo muội đưa ra mấy điểm gọi là xin được góp ý với Ban biên tập.
Điểm 1 - Những nhà văn nhà thơ có tên trong cuốn TĐVH tôi thấy phần đông là người ngoài Bắc (trước và sau kháng chiến 45) còn miền Nam chỉ có vài chục người trong số 300 người có tên trong tác phẩm. Các bậc thi hào lừng danh từ đời Lê - Lý - Trần (hoặc ở giai đoạn trước nữa) cũng chỉ được đề cập hạn chế, trong lúc tác phẩm nêu tên một số nhân vật chưa hoàn toàn gây được niềm tin đối với độc giả, chưa hẳn là thật sự nổi danh và cũng khó mà theo kịp các bậc thi hào kiệt xuất vào hàng tiền bối mà Ban biên tập sơ ý bỏ quên. (Xin coi: Thơ văn Lý - Trần I - llI - Lược truyện các tác giả Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH Hà Nội, năm 1977, năm 1971 - Giai thoại Làng Nho, Sài gòn 1966 - Văn đàn Bảo giám, Mặc Lâm SG.1968).
Nhưng điều làm cho người ta ngạc nhiên hơn hết, là trong cuốn TĐVH, ngoài vài chục người như đã nói trên, thấy vắng bóng hẳn một số lớn nhân tài của miền Nam. Đây là một sự thiếu sót đáng tiếc. Nếu không phải do sự sơ xuất của Ban biên tập, hoặc vì một nguyên nhân nào đó (vì thiếu tư liệu, vì thì giờ hạn hẹp...) thì đó là một điều chưa được công bằng khiến độc giả băn khoăn. Như vậy sẽ rất có hại: vô tình đào sâu khoảng cách chia rẽ Bắc-Nam, đồng thời tạo thêm kẽ hở cho kẻ thù lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc ảnh hưởng không nhỏ đến khối cộng đồng người Việt hiện sinh sống ở các nước ngoài (được biết cuốn TĐVH đã qua Mỹ và Pháp).
Điểm 2 - Nên sưu tầm thêm những tư liệu thơ, truyện tích v.v... liên quan đến văn học dân gian: truyện Thạch Sanh, Nhị Độ mai, Tống Trân Cúc Hoa, Trê Cóc, Lục Vân Tiên... nói tóm lại, nên phong phú hóa những đề tài liên quan đến quần chúng là những người tuy ít chữ nghĩa song lại rất ưa thích được người ta nhắc đến ông bà mình. Ngoài ra, cũng nên giới hạn về mặt nào đó những tác giả, tác phẩm, truyện tích hãy còn mới mẻ xa lạ với Việt Nam.
Điểm 3 - Ban biên tập nên nghiên cứu lại sự tách rời tác giả với tác phẩm. Thiết nghĩ nên gộp cả hai lại làm một, vừa không rườm rà lại tiện cho việc khảo cứu. Trong cuốn TĐVH, tác giả, tác phẩm cách nhau quá xa, chẳng hạn ở trên nói bản Chinh phụ ngâm (trang 120/I) của Đặng Trần Côn, rồi mãi sau mới nói tới tác giả (Trang 195/I), hay tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh nằm ở tập I (trang 21), còn tác giả thì nằm ở tập III (trang 112), hoặc Nhà văn hiện đại ở tập II (trang 107) trong khi tác giả Vũ Ngọc Phan nằm mãi cuối tập II (trang 563) v.v... Nên áp dụng trường hợp này cho cả tác giả là người vô danh hoặc tác phẩm không rõ xuất xứ. Nên theo cách trình bày của cuốn Lược truyện các tác giả Việt Nam thì tiện và đúng nhất, và ở cuối mỗi tập nên thêm mục chỉ dẫn (Index) sắp theo mẫu tự A, B, C.., để độc giả tra cứu cho dễ.
Điểm 4 - Về một số nhân vật nêu trong tác phẩm, tôi nghĩ nên thêm vài nét về tiểu sử (nếu có), đặc biệt chú trọng đến những nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo v.v... Việc dõi tìm lai lịch nhân vật xưa rất liên quan đến NGÀNH SỬ - ĐỊA VIỆT-NAM và cũng rất cần thiết cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà khảo cứu về xã hội học, nhân chủng học, dân tộc học... Hơn nữa, nó cũng giúp cho đời sau biết rõ được nguồn gốc, lai lịch các danh nhân giúp cho đời sau biết rõ nguồn gốc, lai lịch các danh nhân nước nhà.
Về mặt này, từ trước tới nay, trong các sách - kể cả sách sử ít ai chú trọng. Thông thường khi nói về một nhân vật nào, tác giả chỉ nêu sơ tên cha mẹ và làng quán (có khi còn bỏ luôn cha mẹ). Cũng có thể là người ta đặt nặng vấn đề văn học, về phần tiểu sử chỉ nói lướt qua. Do đó, người ta đã bỏ mất nhiều chi tiết quý báu phần nào có liên quan đến sử sách, ví dụ như nhà thơ yêu nước Nguyễn Quang Bích tổ tiên xa xưa là Ngô Quyền, hoặc tiến sĩ Nguyễn Tư Giản chính là dòng dõi nhà Lý, tổ tiên xưa kia chạy trốn Trần Thủ Độ sau vụ thảm sát ở thôn Thái Đường Hoa Lâm Bắc Ninh v.v...
***
Điều mong mỏi cuối cùng của người viết mấy dòng này là, sau cuốn TĐVH Ủy ban KHXH Việt Nam sẽ cống hiến độc giả bốn phương một tác phẩm có tầm vóc lớn hơn, một công trình biên khảo rộng khắp với đầy đủ nhân tài của đất nước, tương tự loại Bách Gia Chu Tử của Trung Hoa hay loại "Who's Who" của Tây phương. Chắc là sẽ khó khăn gấp bội, nhưng lại để cho đời sau một kho tàng vô giá. Và phải chăng đó là việc nên làm - Một việc làm để đời...
1-8-87.
(SH34/12-88)
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).