Vài ý kiến về Công giáo với văn hóa Việt Nam

15:17 09/06/2010
CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

Ảnh: nhathocaolanh.com

Nhưng đề cập đến những đóng góp của Công giáo về mặt văn hóa, chúng ta không khỏi có sự phân vân khi phải tách bạch cho rõ ràng đâu là những yếu tố tích cực, là hiệu quả khách quan và đâu là những hạn chế, tiêu cực, nhất là khi xét động cơ của những nhóm người, những cá nhân có liên quan đến những đóng góp văn hóa đó. Chúng tôi xin mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ như sau:

1. Chữ quốc ngữ- từ điển sách báo in bằng mẫu tự la tinh.

Xưa kia, Việt ngữ vốn là viết bằng chữ Nôm, một thứ chữ được hình thành trên cơ sở chữ Hán khối vuông của Trung Quốc. Nhưng bắt đầu thời cận đại, thứ chữ này dần dần được thay thế bằng chữ Quốc ngữ ghép vần theo mẫu tự La tinh. Thứ chữ này do các nhà truyền giáo phương Tây đưa vào nước ta từ thế kỷ XVI, XVII. Họ đã lấy những chữ trong vần chữ cái của nước họ mà đặt ra thứ chữ mới để ghi và dịch tiếng bản xứ, tiện cho việc giảng dạy các tín đồ. Sáng tạo ra thứ chữ này, trước hết là các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, rồi sau đến Linh mục A. de Rhodes hoàn thiện thêm và trở thành một thứ chữ thông dụng chung trong việc truyền giáo, trong việc dịch in các kinh bổn của đạo Kitô.

Linh mục A. de Rhodes đem thứ chữ ấy để biên soạn bộ “Từ điển Việt- Bồ- La” (Dictionnaire Annamite- Portugais- Latin), cuốn sách giáo lý vấn đáp Cathéchisme Annamite et Latin. Sau đó gần 200 năm, Giám mục d' Adran soạn tiếp bộ Tự điển Việt- Latin, nhưng chưa xong thì ông mất. Rồi Giám mục Taberd tiếp tục soạn lại thành bộ Dictionnaire Annamitico- Latinum. Xem chữ quốc ngữ ở bộ tự điển ấy, ta thấy chẳng khác gì nhiều lắm so với chữ Quốc ngữ ngày nay. Cho nên, có thể nói rằng: chữ Quốc ngữ hiện đại đã được định hình một cách cơ bản từ thời hai Giám mục d' Adran và Taberd.

Lúc đầu chữ Quốc ngữ chỉ dùng để dịch, soạn các kinh bổn giáo lý. Nhưng từ sau khi thực dân Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), thì thứ chữ này được chính thức dạy ở các trường “tân học” trong xứ Nam Kỳ thuộc địa. Rồi các trí thức Công giáo đầu tiên như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của cũng bắt đầu dùng chữ Quốc ngữ để viết sách, viết báo và cho xuất bản phổ biến các ấn phẩm bằng chữ Quốc ngữ. Đến thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ dần dần trở nên thông dụng khắp các ba kỳ của nước Việt Nam, thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Mọi người đều công nhận dùng chữ Quốc ngữ để ghi chép và phổ biến mọi kiến thức là rất tiện lợi. Đến như các nhà Nho bảo thủ từng chê bai thứ chữ “ngoằn ngoèo như con giun”, là thứ chữ có nguồn gốc từ xứ sở của kẻ thù dân tộc, thì cuối cùng cũng không có ký do gì để tẩy chay, để cự tuyệt nó. Còn như các nhà Nho cách tân yêu nước thì đã ra sức cổ động cho việc học chữ Quốc ngữ:

            Nước ta học vấn thế nào?
            Chẳng lo bỏ dại, lẽ nào đặng khôn.
            Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước,
            Phải đem ra tính trước dân ta.
            Sách Âu Mỹ, sách Chi Na,
            Chữ kia, chữ nọ dịch ra cho tường.

Chắc rằng các nhà truyền giáo phương Tây ở thế kỷ XVII, XVIII cũng chưa hình dung được tác dụng và mức độ phổ quát của chữ Quốc ngữ ở đất nước “An Nam nhược tiểu”. Và cả những tên thực dân xâm lược chính hiệu khi bắt ép nhân dân bản địa loại bỏ chữ Hán- Nôm để dùng thứ chữ theo mẫu tự La tinh này, cũng đã không lường trước được cái “hiệu quả khách quan” to lớn của nó, một khi nó đủ khả năng thay thế cả chữ Pháp (là thứ chữ của "mẫu quốc" bắt buộc phải học ở các bậc học) ở dưới thời nước Việt Nam đã độc lập và thống nhất như hiện nay?

2. Lớp người học tập kiến thức phương Tây đầu tiên.

Cùng với việc sử dụng và phổ biến chữ Quốc ngữ, phải chăng Công giáo Việt Nam đã có những giáo sĩ, linh mục, tín hữu... là lớp người đầu tiên tiếp xúc với văn minh phương Tây? Họ đã sớm có điều kiện học hỏi những kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật của phương Tây cận đại. Từ đó, họ cũng đã đưa về cho đất nước những kiến văn mới mẻ, những tư tưởng tiến bộ so với nền văn hóa, văn minh phương Đông già cỗi lạc hậu ở vào thời điểm thế kỷ XVIII, XIX?

Phải chăng những người công giáo có kiến thức phương Tây này vừa là những “sứ giả” đầu tiên trong cuộc tiếp xúc Đông- Tây ở trên đất nước Việt Nam, vừa là “chứng nhân” của lịch sử trước sự đụng độ giữa hai nền văn hóa Đông- Tây diễn ra ở nước ta hồi thế kỷ XIX? Và như vậy, vô hình trung họ đã có một vai trò nhất định trong sự tiếp xúc ban đầu đó?

Sự hiện diện của đạo Thiên Chúa (Công giáo), của các linh mục, tu sĩ và của một số giáo dân trí thức đã tự giác hoặc không tự giác, có góp phần đáng kể trong việc truyền bá văn hóa- tư tưởng phương Tây. Bấy giờ, như chúng ta đã biết,ở nửa đầu thế kỷ XIX, triều đình Huế đã bắt một số giáo sĩ người phương Tây và người nước ta câu lưu tại kinh đô Thuận Hóa để phiên dịch một số không ít sách vở, tài liệu đủ các chủng loại của phương Tây để cho các vua quan trong triều đình đọc, tìm hiểu những điều mới lạ từ phương Tây. Chúng ta chưa rõ được tác dụng cụ thể của những sách vở đó đối với vua quan triều Nguyễn đến mức nào. Nhưng ít ra, cũng giúp họ mở rộng nhãn quan, bắt buộc họ phải biết đến có một nền văn minh- văn hóa khác với kiến thức truyền thống mà họ học được, rằng chỉ có Đương Ngu, Tam đại, chỉ có Hoa Hạ và Di Địch như họ vẫn hằng tưởng. Cho nên, trong các kỳ thi Hội thi Đình lúc bấy giờ, cũng đã có những đề thi “văn sách” nói đến những vấn đề về khoa học kỹ thuật phương Tây. Vua Tự Đức trong một số kỳ “Đình đối” đã trực tiếp hỏi các “thí sĩ” về thuyết “địa cầu chu chuyển”, về máy “ngọc hạp toàn cơ” của phương Tây... và về sau (năm 1866), chính nhà vua “hay chữ” này cũng từng bị nhà cải cách người Công giáo là Nguyễn Trường Tộ thuyết phục và vua đã cử ông sang Pháp mời các chuyên gia khoa học kỹ thuật về mở trường đào tạo nhân tài mới v.v...

Dĩ nhiên, khi một nền văn hóa mới du nhập thì có sự đấu tranh và nhiều lúc không kém phần gay gắt. Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, ý thức tư tưởng của giới cầm quyền lúc bấy giờ cũng đã xảy ra cuộc đấu tranh chống tư tưởng Thiên Chúa giáo. Nho sĩ cao cấp và các đình thần dưới thời Tự Đức đã cãi vã nhau về thuyết “thiên đường, địa ngục”, về “Di giáo và tả đạo”, về “Thiên Chúa và Thượng đế”. Cuối cùng, kiến thức Nho học đã hoàn toàn bất lực, không thể vạch ra được bản chất của Thiên Chúa giáo. Các nhà cự nho lúc đó, chẳng những đã không bác bỏ được Thiên Chúa giáo về mặt lý luận, mà cũng không thể vạch ra được một chính sách đúng đắn đối với nó và đối với đồng bào theo đạo. Trong lịch sử, đây là lần đầu tiên dân tộc ta phải đương đầu với một tôn giáo thế giới có nguồn gốc phương Tây. Lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại hẳn không quên rằng các nhà nho ta đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực để mà “biện di”, “biện hoặc” và “biện đạo” hồi giữa thế kỷ XIX. (Hiện nay trong Tự Đức ngự chế thi văn tập vẫn còn lưu giữ khá đầy đủ những bài “luận văn” này. CT)

3.Truyền bá văn hóa tư tưởng phương Tây, góp phần làm phong phú nền văn hóa bản địa.

Truyền bá và vận dụng kiến thức khoa học phương Tây, một số trí thức công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Đức Tuấn, Đinh Văn Điền đã thể hiện ra bằng những bản điều trần cải cách duy tân đất nước như chúng ta đã biết. Nội dung tư tưởng tiến bộ của cả một hệ thống các vấn đề cần cải cách duy tân đất nước đó, chính là một đóng góp mới vào đời sống văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX.

Việc góp phần của Công giáo vào văn hóa (văn học Quốc ngữ) cũng nên kể đến những “cơ sở xuất bản” các ấn phẩm Quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam như Tân Định ở Sài Gòn (Nam Kỳ), Kẻ Sở, Ninh Phú Đường ở miền Bắc. Các nhà in Công giáo này ngoài việc in, phát hành các sách báo về Công giáo, còn in và phổ biến nhiều cuốn sách về khoa học thường thức theo mô thức giáo dục phương Tây cận đại. Chẳng hạn như các cuốn sách: Phép Địa dư (Tóm tắt những điều cần cho kẻ mới học), in tại Ninh Phú Đường, năm 1881, cuốn Nam quốc địa dư, in tại Kẻ Sở năm 1910. Cách biên soạn loại sách “giáo khoa” này đã có tính chất “hiện đại”, như chia thành:

- Địa lý bách vật tức là Địa lý tự nhiên (Géographie physique)

- Địa lý bang giao tức Địa lý chính trị (Géographie politique)

- Địa lý tài vật tức Địa lý kinh tế (Géographie économique)

v.v...

Những kiến thức về văn hóa, xã hội, chính trị được phân loại “kiểu mới” như thế cũng góp phần hướng đất nước ta về văn minh phương Tây và hòa nhập vào văn minh chung của thế giới.

Mặt khác, về tôn giáo tín ngưỡng mà nói thì trong truyền thống Việt Nam vốn chưa có tôn giáo thờ Đức Chúa Trời. Nhưng từ thế kỷ XVII trở về sau, ở Việt Nam đã du nhập thêm tôn giáo này với tất cả tín điều, lễ tiết, giáo luật của nó.. Đời sống văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam, từ đây có thêm một tín ngưỡng tôn giáo mới và ngày càng phát triển. Số lượng giáo dân ngày càng đông.

Người Việt Nam Công giáo, ngoài chức phận là công dân, họ còn là người tín hữu và có một sinh hoạt tôn giáo riêng. Đạo Công giáo với những đức tin của nó, với những nét đặc thù của nó, dần dần trở thành có một “tập quán” phong tục riêng của công chúng giáo dân trong xã hội Việt Nam. Tất nhiên, trong các tập tục đó, có cái là mới, là hay, là tích cực, nhưng cũng có cái không hay, cái tiêu cực đối với đời sống xã hội con người Việt Nam trong tiến trình lịch sử của nó. Những tính chất đa dạng và phong phú đó, một cách tất yếu, từ đây được hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam, làm phong phú thêm đời sống văn hóa của dân tộc ta. Đó là một thực tế tồn tại khách quan không thể nào phủ nhận được. Những yếu tố văn hóa Công giáo này được hội nhập vào nền văn hóa truyền thống khác, và đó cũng chính là qui luật chung trong đời sống văn hóa của toàn nhân loại.

Cuối cùng, phải chăng là có một dòng văn học Công giáo? Vấn đề này, cũng xin đặt ra để chúng ta cùng suy nghĩ. Có ý kiến cho rằng, trong cả mấy thế kỷ, tư tưởng Thiên Chúa giáo đã không thấm được vào văn học, nghệ thuật, học thuật của nước ta. Cũng không nổ ra cuộc tranh luận ồn ào, gay gắt về lý thuyết giữa các tôn giáo Nho, Phật, Lão với tôn giáo này. Nhưng gần đây, qua một số “phát hiện mới” (thực ra là một sự nhận thức lại) đối với một số tác phẩm văn thơ của các tác giả người Công giáo dưới thời cận đại, nhất là từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 40 của thế kỷ này, như truyện Thầy Zaro Phiền của Nguyễn Văn Quán, một số truyện thơ viết theo thể lục bát và song thất lục bát (của nhà in Tân Định, Kẻ Sở...) và nhất là các bài thơ “đạo” trong các tập thơ Xuân Như ý, Thượng thanh khí của Hàn Mặc Tử, trong đó có khá đậm nét “tư duy đạo”. Chẳng hạn khi đọc những vần thơ như:

           

Ảnh: gxvn-stuttgart.de

Ave Maria
            ...
            Maria, linh hồn tôi ớn lạnh!
            Run như run thần tử thấy long nhan,
            Run như run hơi thở chạm tơ vàng.
            Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến,
            Lạy Bà là đấng tinh tuyền thánh vẹn,
            Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi...

Hoặc ở bài Vầng trăng.
            ....

            Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm,
            Xin ban ơn bằng ánh sáng thêm lên.
            Ánh thêm kiên cho không gian thêm đẫm,
            Linh hồn thơ mát rợi với hương nguyền.
            ...

Nói là dòng văn học Công giáo, chúng tôi không tính đến những thơ ca tuyên truyền yêu nước, cách mạnh (như của Mai Lão Bạng, Đậu Quang Lĩnh...) văn điều trần (của Nguyễn Trường Tộ)... vì đó cũng là văn học chung.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, từng có một dòng văn học Thiền (Phật giáo) ở thời Lý Trần, thế thì ở thời cận đại có thể có một dòng văn học Thiên Chúa giáo (Công giáo) không? Mong các nhà nghiên cứu cho biết thêm ý kiến.

Hà Nội, tháng 10/2000
C.T
(142/12-00)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.