Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam

15:57 18/12/2008
ĐẶNG ANH ĐÀO


I. Giới hạn vấn đề
1. Bản thân bài viết này sử dụng thuật ngữ “cái kỳ ảo” như một qui ước đã được chấp nhận - ít nhất do tên gọi của cuộc hội thảo này. Bởi lẽ, ngay ở một vài nước sử dụng tiếng Anh từ “fantastic”, có nội hàm đã được qui ước trong nhiều sách lý luận nước ngoài (với hai tiền đề: 1/ Yếu tố siêu nhiên; 2/ Một phản ứng lưỡng lự giữa cái thực và cái huyền hoặc của nhân vật và độc giả) thì theo D.Lodge, "fantastic chuyển sang tiếng Anh, thường là một từ đối lập rõ rệt với cái thực, mà cái lạ lại có vẻ thích hợp hơn...” (1) với loại truyện mà Todorov gọi là fantastigue...”. Tiện thể, cũng xin nêu là Từ điển thuật ngữ văn học(2) mới là đầy đủ nhất của ta vẫn không có từ này, nên về khái niệm, chúng tôi dựa vào sách nước ngoài.

2. Về thể loại, bài viết này giới hạn ở truyện và tiểu thuyết, trước hết vì khối lượng như vậy đã quá lớn. Ngoài ra còn có những lý do khác sâu xa hơn: a/ Vấn đề sử thi Việt : có bao nhiêu tác phẩm thực sự là sử thi, hay đó là truyền thuyết? Chúng tôi cũng xin lưu ý là ở một công trình lớn như Đại đồ giải bách khoa thư của các nền văn học, Schaeffer đã có nhận định là “một nước như Trung Hoa cũng không có sử thi” (3). Bởi khi xác định một anh hùng ca (sử thi), thường tiêu chí thi ở Việt hay bị bỏ qua (xin lưu ý Odyssée là một bản trường ca gồm 24 ca khúc). Ta chỉ chú ý tới vế “anh hùng” mà quên tiêu chí “trường ca”; b/ Ngọn nguồn xa nhất của cái kỳ ảo là huyền thoại, thì quả là ở ta rất hiếm hoi và rời rạc, chỉ có những mảnh vỡ không điển hình (ví dụ Sơn tinh Thuỷ tinh vừa được coi là sử thi, vừa được coi là huyền thoại ngay ở trong cùng một cuốn sách (4); c/ Cuối cùng một thể loại thường được coi là dị biệt với tiêu chí kỳ ảo, đó là thơ trữ tình, nó thường nằm ngoài phạm vi của thể loại kỳ ảo. Bởi lẽ đối với thơ trữ tình, chúng tôi đã chấp nhận ý kiến của Todorov như một tiền đề: ở đây, dù có xuất hiện hình ảnh siêu nhiên, độc giả vẫn không phản ứng theo cách cảm nhận trước một thực tại thể hiện theo nghĩa đen, mà thường vượt qua cái được biểu hiện và đọc thơ theo chuỗi biểu hiện của toàn bộ hệ thống từ ngữ, nhịp, vần... Vậy nên, khác với truyện, cái siêu nhiên ở thơ trữ tình không gây phản ứng lưỡng lự, hồ nghi ở độc giả mà nhằm gợi lên ảo giác của thi nhân hoặc được sử dụng như một hình thái tu từ.
3. Trên cơ sở xác định thuật ngữ và giới hạn như vậy, bài viết sẽ chỉ chú trọng tới sự khác biệt về vai trò của cái kỳ ảo trong chiều dài lịch sử qua một số truyện và tiểu thuyết tiêu biểu trong liên hệ với truyện “không kỳ ảo”. Như vậy, tiến trình của công việc đã bao hàm việc xác định những cái mốc của thời gian.

II. Vai trò của cái kỳ ảo qua những mốc phát triển của một số truyện và tiểu thuyết tiêu biểu.
1. Đã có một thời kỳ, cái siêu nhiên xuất hiện trong một hình thức truyện ở thế kỷ XV như một xương sống chi phối toàn bộ cốt truyện được gọi là “truyền thuyết và cổ tích” - như Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San đã nói về Lĩnh Nam chích quái (5). Tuy nhiên, loại truyện này không thuộc thể loại kỳ ảo - như thuật ngữ đã được qui ước ở trên, bởi ở một số truyện, cái siêu nhiên được giải thích bằng thiên nhiên (hòn núi có dáng vọng phu) hoặc lịch sử (Đổng Thiên Vương phá giặc Ân) v.v... trong khi đặc trưng của truyện kỳ ảo là tính chất mập mờ, khó phân định giữa thực và ảo. Ở loại này, điều tối kỵ là sự kết thúc bằng những lời giải thích về hiện tượng siêu nhiên. Ngoài ra, ở LNCQ có nhiều cổ tích: chất liệu chính của nó là cái thần diệu (merveilleux), cái ảo ở đây thật thuần tuý song phản ứng của độc giả là sự chấp nhận trò chơi, không hoang mang, không thấy hiện tượng ấy có chút gì bất ổn - mà trạng thái bất ổn mới chính là biểu hiện của cái kỳ ảo.

2. Một chặng phát triển tiếp theo là thế kỷ XVI mà tên tuổi nổi bật là Nguyễn Dữ với Truyền kỳ mạn lục. Dẫu ở đây có những truyền kỳ lấy lại motip và cốt truyện của Trung Hoa, song màu sắc dân tộc không đơn giản chỉ xuất hiện ở những địa danh mà còn ở những khung cảnh đẹp đẽ, con người thuần phác và thành ngữ thuần Việt bên cạnh những điển tích Trung Hoa đã Việt hoá qua những truyện hay nhất như Người con gái Nam Xương (6). Cái ảo đậm nét ở thời mở đầu cho sự hình thành một nền văn xuôi dân tộc, thời mà theo Nhan Bảo, việc các nhà văn viết lại các truyện cũ của nước khác không hề tự coi và bị coi là có gì khuất tất, “đạo văn”. Bakhtin cũng đã từng nhận định “Văn xuôi tiểu thuyết châu Âu nẩy sinh và thiết lập trong một quá trình dịch thuật tự do (biến đổi) tác phẩm của người khác” (7). Có thể do vậy mà - đúng như Vũ Thanh đã nhận xét, yếu tố kỳ (sic) mãi mãi là “dư ba” của "một thời trung đại chất phác, cổ sơ, khắc nghiệt nhưng cũng đầy huyền thoại và yên tĩnh nên thơ” (8). Trong sự phát triển truyện và tiểu thuyết của ta.

Tuy nhiên, khi đánh giá truyện phương Tây, Vũ Thanh đã có phần thiên lệch khi coi sự “mờ nhạt dần” của yếu tố kỳ như một bước thoái hoá, đặc biệt khi chúng đã “mất đi tính “hồn nhiên” vốn có”. Theo tôi nghĩ con người ta không thể mãi mãi giống như ở thời Trung cổ, và Mar đã từng nói đến “thời thơ ấu một đi không trở lại của nhân loại”. Nếu có điều cần so sánh, có lẽ đó chính là: với tư cách là một thể loại - theo đúng nghĩa truyện kỳ ảo - mà không phải là cổ tích, truyền kỳ thì thể loại này ở phương Tây đã có sự phát triển trọn vẹn, điển hình sớm hơn ở Việt Nam (vào thế kỷ XVIII), và đậm đặc, lẫy lừng hơn. Một điều đáng kể nữa, là sự phát triển ấy liên tục hơn và có sự đổi mới rõ rệt, đặc biệt ở thế kỷ XX.

3. Chặng đường phát triển mới đầu thế kỷ XX.
Ở Việt từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XX, cái kỳ ảo vẫn tồn tại trong văn xuôi, song người ta thường bỏ qua khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX có lẽ vì không có những tác phẩm đột xuất về chất hoặc phong phú về lượng. Tới nửa đầu thế kỷ XX có một biến chuyển rõ rệt. Ngoài những tên tuổi mà Vũ Thanh đã nêu trong bài đã dẫn, chúng tôi xin nêu thêm một vài tên tuổi: Ngô Tất Tố với Suối hoa đào, Phạm Duy Khiêm với những truyền kỳ viết lại (bằng tiếng Pháp), mà ông dịch là Ghi chép tản mạn về những truyện kỳ lạ (Copies éparses des Comtes étranges); rồi Tản Đà ông cũng đã dịch (hay phóng tác?) Liêu trai chí dị với những câu thơ đề từ: “Nói láo mà chơi, nghe láo chơi/ Dàn rưa (sic) lún phún hạt mưa rơi...”. Nhưng cuối bài tứ tuyệt, Tản Đà lại kết thúc bằng việc “Nghe than khóc (...) giống ma Hời!”.

Nếu theo Vũ Thanh, đa số các tác phẩm của những tên tuổi nổi bật ông đã dẫn, “đều lộ rõ ý định khuyên răn người đời phải sống có đạo đức...” hoặc “đem kiến thức khoa học để lí giải những hiện tượng thần bí" thì việc ông gọi những truyện này là "truyền kì đời mới” cũng phải. Bởi lẽ tính chất ngụ ngôn đã huỷ diệt cái kỳ ảo. Còn loại truyện dùng khoa học để giải thích cái siêu nhiên thì ở thời hiện đại, đã xuất hiện hai thể loại thay thế (mà ở ta vẫn chưa phát triển): đó là truyện trinh thám và truyện viễn tưởng.
Nhìn toàn cảnh thế giới thế kỷ XX, cái mới ở thể loại truyện kỳ ảo, đó là nó ngày càng hướng nội. Với tư cách là một thể loại, ở sáng tác của Kafka, người ta hay chọn điển hình là truyện Biến dạng. Song ở chiều sâu, người ta lại tìm thấy nó ở những tiểu thuyết và một số truyện ngắn mà các kỳ ảo đi vào nội tâm của nhân vật (và cả độc giả). Người ta đã phát hiện không biết bao nhiêu hình ảnh không biết là có thực hay huyễn hoặc (do cái nhìn của nhân vật) trong chỉ một truyện như Vụ án. Vậy mà khi đọc, bản thân tôi vẫn còn kinh ngạc trước biết bao chi tiết chưa lượm hết. Ví như: trên đường tới hầu toà lần thứ nhất, Joseph K. nhìn thấy một thằng bé ngậm tẩu đứng bên đường hoặc những cảnh “tiên báo” Cách mạng văn hoá và Pônpốt...

Có một sự so sánh thú vị của Hanna Voisine-Jechova giữa Con đầm pích của Pouchkhine và Giấy tờ của Jeffrey Aspern... (9) của Henry James. Tuy sơ đồ cốt truyện giống nhau, song từ góc độ loại hình, bà nhận thấy sự khác biệt rõ rệt về cái kỳ ảo ở hai truyện, khi phân tích các nét khác biệt về nghệ thuật kể truyện. Ngôi kể chuyện thứ nhất của James dừng ở những thể nghiệm cá nhân, khi ngôi thứ ba ở CĐP biết và giải thích rõ ràng hơn. Những motip của “vật ham muốn” cũng khác nhau - ở CĐP nó in dấu ấn thiện ác rõ rệt, còn ở nhân vật của James là một khao khát không hẳn là xấu xa. Thời lưu của câu chuyện kể và của thời gian kể chuyện cũng khác nhau: ở CĐP, đó là một sự kết nối những yếu tố gay cấn, còn ở G.J.A., chúng giống như những mảnh ghép theo chiều ngang hơn là dựng đứng, có đường viền nhạt nhoà, theo một kết cấu mở. Ở CĐP, kết thúc đóng lại với những số phận rõ rệt của nhân vật. Từ đó, Voisine-Jechova cho rằng cái kì ảo ở CĐP in dấu ấn rõ rệt của truyền thống “thần diệu” của truyện dân gian, còn G.J.A. in dấu ấn của cái dị biệt hơn là siêu nhiên - nó nằm trong từ trường của loại “fantastique spéculatif” (kì ảo thiên về lí tính?) theo kiểu “tiểu thuyết đen” (kinh dị?) anglo-saxon và nhất là kiểu Edgar Poe.
Sự phân tích trên cũng gợi cho chúng tôi một cảm nhận về cái kì ảo ở truyện kể Việt - nó mang dấu ấn của nguồn dân gian- gần với truyện Pouchkine.

4. Sự trở lại của cái kì ảo vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX.
Tôi nói đến sự trở lại, bởi đã có một thời kì đứt đoạn từ cuối những năm 40 tới những năm 80: sự ngự trị của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đề cao cái "chân thực, lịch sủ cụ thể" như một tiêu chí giá trị rõ ràng, đã loại trừ cái kỳ ảo.
Giá trị của văn chương không thể căn cứ vào lượng mà phải vào chất. Trong làn sóng lăn tăn của cái kì ảo dậy lên ở văn xuôi cuối những năm 80, tác phẩm có yếu tố kì ảo đậm nét nhất là ở Nguyễn Huy Thiệp. Song điều đáng lưu ý ở đây là nét hiện đại đã thấp thoáng. Trạng thái bất ổn, gây cấn không xuất hiện ở những truyện đậm đặc màu sắc siêu nhiên (Những ngọn gió Hua Tác) hoặc ở những truyện mà cái kỳ ảo đan cài vào tạo ra màu sắc grotesque (như Con gái thuỷ thần I, Vàng lửa...). Theo chúng tôi nghĩ, trạng thái đáng ngại, âu lo, ranh giới mập mờ giữa cái kinh dị và cái thực lại xuất hiện ở chi tiết hoàn toàn không siêu nhiên của một truyện như Tướng về hưu: người con dâu ông tướng nuôi chó bằng thai nhi, hoặc đi mua vải liệm vào đúng lúc người mẹ chồng đang ốm bỗng ngồi dậy dạo chơi và ăn được cơm (mà sau đó quả là bà đã lăn ra chết!).

Về hiệu quả của cái kì ảo ở thời kỳ cuối thế kỷ XX, ở các nhà văn - đặc biệt lớp trẻ - họ không chỉ sử dụng nó như một bút pháp mang lại chất thơ hoặc hoài niệm về ngọn nguồn. Dường như họ sử dụng nó để giải toả một số ẩn ức, hoặc phát biểu những điều cấm kị. Thực ra, từ truyền thống các nhà nghiên cứu truyện kì ảo đã phát hiện rằng đây là một công cụ để nhiều nhà văn đề cấp tới những đề tài cấm kị. Những truyện loạn luân, cuồng dâm, đồng tính luyến ái, ham muốn tình dục với người chết v.v... Nếu xuất hiện trong truyện kì ảo - ở những thế kỷ trước - mới dễ dàng vượt qua lưỡi kéo kiểm duyệt ở phương Tây. Còn ở Việt Nam,vào những năm 80, có lẽ vì muốn đề cập tới một số nét quái đản mới xuất hiện trong xã hội, hoặc những khủng hoảng tinh thần, nên, một số nhà văn trẻ như Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư mới sử dụng cái kì ảo như một con đường vòng để tránh “đòn hội chợ”... vậy mà vẫn chẳng tránh được! Một số người đọc quá "mẫn cán" đều cảm thấy không khí khủng hoảng (mà họ cho là “bôi đen”) trong các truyện ấy.

III.Kết luận
1. Theo chiều dài của lịch sử văn xuôi kỳ ảo đã điểm trên, ta nhận thấy cái kì ảo chỉ xuất hiện như một yếu tố và cũng chỉ xuất hiện trong truyện ngắn mà không có mặt ở truyện dài. Phải chăng về bản chất, “kỳ ảo” là một sự thể nghiệm tới hạn, ở ranh giới của cái hoang tưởng huyễn hoặc với cái thực nên cũng khó “nuôi” nó trong tiểu thuyết? Đó là chưa kể tình trạng chậm phát triển của tiểu thuyết ở ta nói chung.
2. Cái kỳ ảo ở truyện Việt hướng về những yếu tố thần diệu, siêu nhiên của truyện dân gian, hướng về thế giới bên ngoài hơn là chuyển vào nội tâm. Bởi vậy, hiệu quả đặc trưng của truyện kỳ ảo - thiết lập một trạng thái băn khoăn, bất ổn, thậm chí lo âu - chưa nổi bật ở các tác phẩm này của ta. Giờ đây, dọa nạt con người hiện đại đâu có dễ! Thế mà, chính thực tại ngày nay lại chất chứa nhiều phi lý và kinh dị hơn bao giờ hết...

3. Cái kỳ ảo, dù chỉ là những mảnh vụn hay “dư ba” trong một câu chuyện, nó không thể chỉ được coi là bút pháp. Bởi mỗi chi tiết kỳ ảo đã là một đơn vị ngữ nghĩa tạo ra phản ứng đặc trưng của nhân vật lan toả tới người đọc: cảm giác mơ hồ, bất định trước sự đột nhập của một hiện tượng siêu nhiên. Nó chỉ là bút pháp ở trong thơ. Bởi khi ta đọc những hình ảnh siêu nhiên trong thơ (ví dụ hình ảnh của Trần Thị Lý trong thơ Tố Hữu: “Em là ai, cô gái hay là nàng tiên/ Em có tuổi hay không có tuổi...”), ở đây vẫn không phải là thế giới kỳ ảo được gợi lên: ta không hề có sự lưỡng lự gì giữa thực và ảo. Đó chỉ là một biện pháp tu từ thể hiện cảm hứng của nhà thơ.
4. Những nhận xét trên về vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết không bao hàm một sự bình giá. Tất nhiên, nếu có được những tác phẩm như của Kafka gợi lên được những thể nghiệm, những ám ảnh của con người hiện đại trước một thế giới phi lí, thì người đọc sẽ cảm thông biết mấy! Song những tác phẩm chứa đựng cái kì ảo “hồn nhiên” trong tích cổ Hồ Nguyệt Cô hoá cáo, hay những “truyện cũ viết lại” như kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ và cái bất thường trong Tướng về hưu hoặc Cánh đồng bất tận (10) vẫn thuộc về những kiệt tác gợi lên những ám ảnh vừa huyễn hoặc vừa rất thực của con người hiện đại Việt Nam.
Tháng Tư - 2006
 Đ.A.Đ
(nguồn: TCSH số 210 - 08 - 2006)

 


-------------------
(1) David Lodge, The Art of fiction, 1992, bản dịch tiếng Pháp của Michel và Nadia Fuchs, NXB, Payot & Rivages, 1992, tr.279.
(2) Ví dụ cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, NXB.Giáo dục 2004.
(3) J.M.Schaeffer (mục từ “Thể loại văn học”) trong Grand Atlas Universalis des Littératures.
(4) Xem: Từ điển thuật ngữ văn học, sđd,tr.258 và 298.
(5) Lời giới thiệu Lĩnh chích quái, Nxb. Văn học, Hà Nội 1990. tr.5; viết tắt: LNCQ.
(6) Xem: Đặng Anh Đào, Người con gái Xương và Dòng sông kì ảo, in trong Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 2001.
(7) Những bài viết của Bakhtin (1934 - 1941), Nxb. Seuil, Paris , 1981, tr.193.
(8) Vũ Thanh, Dư ba truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại, in trong Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, NXB. Văn học, 1999, tr.654.
(9) Viết tắt: CĐP và G.J.A.
(10) Xem: Đặng Anh Đào, Sự sống bất tận, Báo Văn nghệ số 17 - 2006.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.