Vài suy nghĩ về quá trình sinh thành của những tứ thơ

10:59 01/09/2010
LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ảnh: cadn.com.vn

Những yếu tố đó bao giờ cũng có nguồn gốc từ hiện thực khách quan bên ngoài, nó khởi đầu từ thế giới khách quan bên ngoài tức là cuộc sống bên ngoài của nhà thơ. Môi trường đó bao gồm cả thiên nhiên và xã hội: Ta thấy tất cả những yếu tố thơ ca thường là xuất hiện do cuộc sống bên ngoài chứ không phải do một yếu tố thần linh và nhà thơ như một con ong phải làm mật từ những bông hoa có thật mà nó đã hút nhụy. Nhà thơ đã nhặt nhạnh những yếu tố đó trước hết là bằng những giác quan tinh nhạy của mình đó là sự quan sát cuộc sống - Như vậy là những chất liệu của thế giới mà sự quan sát cung cấp cho nhà thơ thường hiện ra dưới dạng hình ảnh, màu sắc, hương vị, âm thanh và có thể có muôn cái không nhìn thấy được bằng mắt nhưng vẫn cảm thấy sự có mặt của nó. Ví dụ: Tiếng vang nào đó của một thế giới xa thẳm chợt hiện đến trong lúc nhà thơ nghe nhìn, do vậy nhà thơ chỉ có thể xây dựng lâu đài của mình bằng nguồn vật tư từ thế giới bên ngoài, không có một thần linh nào mang những thức ăn tinh thần làm quà tặng siêu trần gian cho nhà thơ.

Toàn bộ thế giới đã tiếp nhận bằng chính cửa ngõ của giác quan để đi vào tâm hồn nhà thơ (có thể có giác quan thứ 6 - sự linh cảm - nhưng cũng chỉ là giác quan thôi). Nhưng sự quan sát của nhà thơ khác với sự quan sát của một nhà khoa học, hoặc là một người thường. Bởi vì sự quan sát của nhà thơ lựa chọn và thanh lọc để ghi nhận những cái gì thực sự có ý nghĩa của thế giới xung quanh. Điều đó giống như một người quan sát một cái phòng với tất cả những đồ đạc bày biện ở quanh mình nhưng những đồ đạc có ý nghĩa thực dụng thì không thể có cái gì lạ đối với nhà thơ, mà có khi chỉ một bông hoa trên bàn có thể làm cho nhà thơ bắt gặp ở đó một cái gì có ý nghĩa, mang ý nghĩa cuộc đời, sau này sẽ ảnh hưởng đến tâm hồn nhà thơ, cái nhìn của nhà thơ - Đó là cái nhìn của một họa sĩ vẽ tranh tĩnh vật, anh ta chỉ nhặt được trong căn phòng bề bộn của mình những trái cây và những cánh hoa yên lặng. Từ quan sát đến thu nhận, tư liệu của thế giới khách quan được chọn lựa hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách của nhà thơ. Vì vậy, để là một nhà thơ trước hết phải là một người có khả năng nhìn và nắm bắt những hiện tượng, có ý nghĩa của môi trường sống (của thiên nhiên, xã hội, con người và nói rộng ra là toàn bộ thời đại của anh ta).

Ví dụ: Họa sĩ ấn tượng nổi tiếng Pháp là Mô-nê đã nhìn thấy sương mù Luân Đôn màu đỏ (trong bức tranh của ông ta), trong lúc đó thì tất cả những người dân Luân Đôn từ bao túi vẫn nhìn thấy sương mù của thành phố mình là màu xám. Nhưng sau bức tranh của Mô-nê, hầu hết những người dân Luân Đôn đều nhìn thấy có một màu đỏ bí ẩn trong đáy của sương mù thành phố xưa cũ đó.

Cũng vì vậy mà sự quan sát của nhà thơ đồng thời mang tính chất cảm thụ rất mạnh mẽ - Cảm thụ ở đây nghĩa là thu hoạch thế giới đang hiện ra dưới tầm nhìn của mình để chiếm lấy cho riêng mình những gì có sức vang động vào tâm hồi. Ví dụ: Một buổi sáng trên cánh đồng, thì Van Gốc vẽ một cánh đồng lúa chín và trên đó có những con quạ đang bay và đó chính là những bóng đen mãi mãi vẫn ám ảnh tâm hồn Van Gốc. Bản thân tôi, tôi cũng đã đứng trước một cánh đồng như vậy và khi tôi nghe những tiếng chim thì tiếng chim nó vang đến bên tai tôi như một dòng chữ viết trên nền trời và tôi nghĩ đến những dòng thư của một tình bạn thời thơ ấu:

Ôi dòng chữ tiếng chim
Hiện lên rồi lại xóa
Như dòng thư vội vã
Viết từ một chân trời

Quá trình đưa thế giới vào bên trong:

Với những người thường thì những sự kiện và sự việc được ghi nhận hoặc dừng lại ở cửa ngõ các giác quan hoặc là đi vào trong tâm trí của mình, nhưng chỉ một thời gian sau, do sự hững hờ của cái nhìn, của tâm hồn họ, những sự kiện ghi nhận dần dần mất hết ý nghĩa hoặc là tự nó tan biến đi. Riêng với một nhà thơ thì có khả năng tồn giữ những mảnh đời sống, những hình ảnh của thế giới đó ở tận trong sâu thẳm của tâm hồn - và có thể có nhiều lúc người ta không hề nghĩ đến và tưởng như đã quên đi, nhưng mà những hình ảnh phía sau võng mô vẫn tồn tại ở đâu đó trong vô thức tối tăm của mình, giống như những vật quý của cuộc đời bỏ vào một tủ riêng và khóa lại - Đây bắt đầu quá trình nội tâm hóa thế giới khách quan ở tâm hồn một nhà thơ. Quá trình làm việc của vô thức là khó nắm bắt được, nhưng tôi nghĩ rằng quá trình ấy vẫn tiếp tục hoạt động mãnh liệt ngay cả khi người ta ngủ. Và những mẫu quặng của cuộc sống vẫn được nung nấu và tôi luyện không ngừng, và những tứ thơ bắt đầu hình thành giống như những mẫu kim loại lấp lánh. Như vậy qua quá trình nội tâm hóa những vật liệu thô của cuộc sống đã được nhào nặn, tinh lọc, kết hợp để trở thành tư liệu riêng của tâm hồn và đó chính là những dạng đầu tiên của tứ thơ. Như nụ hoa tầm xuân đã tàn theo mùa của nó, nhưng khi nó được nhìn vào và được hái bởi một thi sĩ đồng quê nào đó, bông hoa ấy vẫn còn mãi trong nội tâm của nhà thơ không bao giờ tàn héo, và sau một thời gian lắng sâu nào đó không ai biết thì bông hoa kia lại vụt hiện ra trong ánh sáng ý thức thành ra một bông hoa xanh biếc lạ lùng:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay

Quá trình sống lại của thế giới đã cảm thụ:

Đánh thức: tôi muốn trở lại với câu chuyện hoa tầm xuân. Nó nằm trong đáy sâu của tâm hồn nhà thơ, hầu như đã quên lãng trong cuộc sống hàng ngày của anh ta có khi đến vài chục năm, và đột nhiên nó lại hiện ra. Một biến cố nào đó ở thế giới bên ngoài xảy ra và gây cho tâm hồn nhà thơ một nỗi xúc động cao độ để làm sống lại cái hình tượng của bông hoa tầm xuân kia, và chắc chắn biến cố ấy là sự kiện người bạn gái yêu thương của anh ta đã đi lấy chồng. Như vậy rõ ràng là phải có một biến động, một yếu tố tác động nào đó của cuộc sống để đánh thức cả một tâm trạng đang lắng ngủ, giống như hòn sỏi ném vào mặt hồ đang yên tĩnh. Theo tôi nghĩ cái yếu tố tác động để đánh thức là hết sức quan trọng và cũng mang đầy tính chất ngẫu nhiên trong quá trình sáng tạo của nhà thơ. Có thể là một biến cố trong đời sống tình cảm của con người hoặc thường khi chỉ là một vật tình cờ, nhỏ bé, lẻ loi, rất có thể nhìn lướt qua rồi bỏ đi dưới con mắt người khác, ví dụ như một chiếc lá khô mùa thu rơi dưới bước chân. Nhưng đối với nhà thơ thì chiếc lá vàng rơi nhẹ ấy lại mang tất cả sức nặng của vũ trụ. Nó đến với nhà thơ như một âm thanh mang tất cả nỗi xao xuyến của tâm hồn, và một khi đã rơi vào lòng người thì nó trở thành ngón tay thần kỳ của một người nghệ sĩ nào không biết đang nhấn lên một phím ngà của chiếc dương cầm tâm hồn, và lập tức như một chủ âm, âm thanh ấy làm dấy lên giai điệu của một bản xô-nát: Sự ngân rung của nội tâm nhà thơ vào khoảnh khắc ấy mang đầy nhạc tính và ta có thể gọi đó là giai điệu của tâm trạng thi ca, từ đó sẽ xuất hiện mô-típ chính của bài thơ.

Xin dẫn chứng bằng một kinh nghiệm sáng tác của riêng tôi. Một buổi sáng, tôi nghe một người bạn đọc một bài thơ thiếu nhi có hai từ “màu ngà”, từ đó hai từ ấy cứ vướng vít trong tâm trí tôi, không lúc nào dứt. Âm thanh có tính chất nội dung của hai từ ấy gợi cho tôi nghĩ đến vẻ đẹp tuổi thơ - sự trong sáng của tâm hồn - cái nguyên vẹn, tinh khôi của trời đất thuở ban đầu và tự nhiên tôi nghĩ đến cái trứng chim và tôi không bao giờ rời khỏi hình ảnh quả trứng, quả trứng ấy luôn đè nặng lên tâm trí tôi cho đến lúc tôi làm xong bài “Cái tổ chim”. Bài thơ có đoạn:

Một quả trứng màu ngà
Như sự sống ngân nga
Dâng lên trong chiếc tổ…

Thế giới hiện ra: Tâm trạng thi ca một khi đã dấy lên nó làm nặng trĩu tâm hồn như một tình yêu chưa đạt tới. Nó luôn luôn kêu gọi, thúc giục, quấn quít. Từ đó, nhà thơ cảm thấy cái nhu cầu cấp thiết phải giải phóng nội tâm của mình bằng cách thúc đẩy cho xuất hiện toàn bộ bản xô-nát đã dấy lên. Đây là quá trình hoạt động căng thẳng của “bộ máy bên trong”, trong đó, hình như ngoài ý muốn của nhà thơ nó tập trung tất cả năng lực của hồi ức, trí tưởng tượng và sức nhập thân vào đối tượng. Ở đây phải nói đến sức mạnh kỳ lạ của hồi ức: có thể từ một hình ảnh xa xôi và hầu như không đáng kể, và cứ thế nhiều nét khác được lôi cuốn xuất hiện, từng tí một cho đến lúc hồi ức dựng lên được cả một bức tranh toàn vẹn.

Tuy nhiên hồi ức không phải là sự đồ lại nguyên bản những ghi chép của trí nhớ; hoạt động của hồi ức mang đầy tính sáng tạo bằng cách cải biên, cách điệu hóa trí nhớ, bằng cách tổ hợp các yếu tố rời rạc của trí nhớ để thành ra một cấu trúc toàn vẹn mang một ý nghĩa mới. Và người ta hiểu rằng: Cùng với trí nhớ, đấy là công lao của trí tưởng tượng.

Như ta đã biết, từ một bông hoa dại, thoáng gặp ngoài đồng, hồi ức và trí tưởng tượng của nhà thơ đã xây dựng nên một bức tranh toàn vẹn của thế giới tình cảm mang tính nhân loại; bằng năng lực sáng tạo tổng hợp này, nhà thơ ca dao đã nối kết biết bao nhiêu kinh nghiệm sống riêng lẽ và hình như nằm rời rạc ở đâu đó trong những góc tối của tâm hồn, trong đó có mùi hương hoa bưởi của những đêm hẹn hò, luống cà đầy kỷ niệm, nỗi đau của tình yêu đã mất, và tất cả đó được cấu trúc chặt chẽ vây quanh màu xanh biếc đến quặn lòng của nụ hoa tầm xuân mới nở.

Không chỉ riêng một kỷ niệm đời người, mà nhiều khi còn là một bức tranh lớn lao của lịch sử, của những người cùng thời cũng có thể xuất hiện từ một đơn vị nhỏ của hồi ức như vậy. Tuổi nhỏ tôi thường hay gõ lên những mặt trống, bất kể là trống gì - ngày ấy tôi chỉ thấy rộn ràng trong lòng những tình cảm tươi vui. Sau này lớn lên, khi đến đền Hùng, tôi được vào trong bảo tàng - và gặp cái trống đồng - khi tay tôi chạm đến mặt trống, tiếng ngân của trống đồng làm tôi rung động, xao xuyến. Tôi có cảm giác như mình thành người của thời xa xưa đang đứng gõ trống đồng. Và lúc đó có một mô-típ chính của bài thơ đã đến:

Khi tay chạm, trống đồng ngân
Sững sờ tôi ngỡ mình thành người xưa

Và hai câu thơ ấy theo đuổi tôi suốt ba năm trời, cho đến lúc trái cây đã chín trong nội tâm, thì toàn bộ lịch sử của đất nước bốn nghìn năm vụt hiện ra trong tôi, bài thơ như một thực thể tự sinh dưới ngòi bút của tôi:

… Từ đây đến đấy xa thay
Đầu kia ai đứng cuối này là tôi
Bao nhiêu thời đại qua rồi
Chỉ còn vọng giữa đất trời tiếng ngân v.v…


Điều cần nhấn mạnh sau cùng là cả hồi ức và tưởng tượng, cả cảm tính và lý tính, cả âm điệu và ngôn từ v.v…, tất cả đó vẫn sẽ không bao giờ đưa người ta đến thi ca chân thực, nếu ở nhà thơ không có cái khả năng tổng hợp và linh mẫn nhất của tâm hồn, mà người ta vẫn thường gọi là “trái tim”. Một nhà thơ chân chính trước tiên và sau cùng, phải có một trái tim chân chính, trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và hạnh phúc, trái tim biết căm ghét và khát vọng trong sáng, và luôn luôn mang trong nó nỗi yêu thương vô tận đối với con người và cuộc sống. Về cả đạo đức và thẩm mỹ học chúng ta gọi đấy chính nhân sinh quan mang tính chất nhân đạo chủ nghĩa của nhà thơ.

Có người bạn hỏi tôi: Bài hay nhất của chị là bài thơ nào? Tôi không thể trả lời được. Bởi vì thơ cũng như tình yêu, thật khó nói. Và những tứ thơ bao giờ cũng đòi hỏi ta dâng cho nó mối tình đầu thiết tha, trong sáng, day dứt, xao xuyến, trăn trở, nồng cháy…

Hà Nội 1982
Huế 1983

L.T.M.D
(4/12-83)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.