Vài mẹo về tiểu thuyết dài

08:49 03/03/2023

PHAN NGỌC
    Tặng các nhà tiểu thuyết trẻ

Tôi không phải nhà phê bình văn học. Nhưng tôi ham đọc tiểu thuyết. Có quyển tiểu thuyết nào nổi tiếng thế giới là tôi tìm đọc, thường là trong nguyên bản.

Học giả Phan Ngọc - Ảnh: internet

Mục đích giản dị: xem thử mình có hiểu nổi cái mà người ta cho là hay không. Tôi trình bày dưới đây những suy nghĩ của anh chàng mọt sách. Tôi chỉ nhằm những mục tiêu thấp bé: sao cho sách các bạn trẻ bán chạy, sao cho thế giới hiểu rằng người Việt không những cầm súng giỏi mà cầm bút cũng cừ, sao cho đời sống nhà văn no đủ. Tôi bàn chuyện marketing.

Về truyện ngắn tôi yên tâm. Tôi không phải con người nịnh hót để kiếm sống. Nhưng tôi có thể khẳng định rằng truyện ngắn Việt Nam ngang tầm thế giới. Các bạn nghèo không phải do lỗi các bạn, mà do chỗ Việt Nam thiếu một đội ngũ phiên dịch cự phách. Lại thiếu quảng cáo bởi vì vào thời đại này không có quảng cáo làm sao có thể sống nổi? Chuyện đó bàn sau. Tôi muốn bàn đến vấn đề làm tôi đau đầu: tại sao tiểu thuyết dài Việt Nam lại yếu?

Người ta hay đưa ra ba lý do để giải thích: một là lập trường tư tưởng, hai là trình độ thâm nhập cuộc sống, vốn sống, ba là học vấn nhà văn Việt Nam thấp hơn thế giới. Theo tôi: nói thế là không đúng. Về điểm một, các bạn có quyền tự hào thuộc vào thế hệ những người đổi mạng để giành lấy thống nhất độc lập cho Tổ quốc. Không thể nói nhà văn Việt Nam thua nhà văn thế giới về điểm này được. Về điểm hai cũng vậy: ai lăn lộn với cuộc sống bằng chúng ta? Mỗi người Việt Nam đều có một vốn sống cực kỳ phong phú. Cái nước có thời kỳ mang thêm tên là "nước Nam yên ổn" trong 48 năm qua lại chính là nơi trải qua nhiều thay đổi nhất thế giới. Kết quả: vốn sống của con người tăng lên với một tốc độ kỷ lục. Còn học vấn? Cho đi rằng nhà văn Việt Nam kém nhà văn thế giới về khoa học, kỹ thuật, nhưng điểm quyết định về thành công trong văn học lại không phải ở đấy mà ở những băn khoăn về bản thân cuộc sống, về con đường sống cho mình và cho người khác. Tôi không tin về điểm này nhà văn Việt Nam lại thua người ta.

Theo tôi, cái yếu của tiểu thuyết dài Việt Nam là ở chiêu thức. Công lực thì lớn nhưng chiêu thức thì yếu. Mà cái khó là ở công lực, không ở chiêu thức. Tôi xin lỗi đã dùng hai thuật ngữ của "chưởng". Vì nhìn văn học theo góc độ marketing, tôi không thể bỏ qua bất cứ chiêu thức nào có thể lôi cuốn hàng triệu con người. Theo tôi, văn học ở thời đại này có thể lôi cuốn hàng triệu con người, có thể chuyển thành phim hàng chục tập để làm giàu đất nước và giới thiệu cái đẹp của văn hóa, con người Việt Nam, giá trị của đất nước Hồ Chí Minh. Tôi biết làm thế sẽ bị chê bai, nhưng điều tôi cần không phải là tôi được hay mất cái gì mà đất nước tôi đứng vững trong giai đoạn hậu công nghiệp. Do đó, tôi sẽ nói đến tám mẹo. Các mẹo này không mảy may làm tổn hại đến những quan niệm về hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà trái lại sẽ phát huy đầy đủ nhiệt tình cách mạng của nhà văn. Xin lỗi các nhà lý luận nếu như tôi không nói đến tự do tư tưởng, cá tính sáng tạo và mọi thuật ngữ. Tôi là anh thao tác luận không phải là anh tinh thần luận. Tự thân thao tác, chiêu thức là trung hòa về hệ tư tưởng. Việc giáo dục đã có Đảng lo, tôi chỉ lo sao cho các tư tưởng tốt đẹp hình thức hóa được để mang đô la về. Tôi không nói chuyện với lớp văn sĩ lớn tuổi mà nói với các bạn trẻ vì tuổi trẻ chấp nhận sự thay đổi. Tôi bàn kinh nghiệm làm ăn. Về điểm này các bạn phạm một số sai lầm do chỗ bỏ qua di sản phương Đông. Các bạn xem các phim viđêô của Đài Loan, Hồng Kông rồi chứ? Có những cuốn phim mang về hàng triệu đô la, đánh bại phim Mỹ. Tại sao nó ăn khách? Tôi ngồi xem bàng hoàng. Bỏ qua mặt tư tưởng, chỉ xét mặt thao tác, thì thấy người ta tiếp thu truyền thống tự sự của Tư Mã Thiên, Tam Quốc Chí, Thủy Hử... Còn phim ảnh Việt Nam, tiểu thuyết Việt Nam là những ông Tây An nam. Mà cái công lực phương Đông thì các bạn có sẵn, hết sức phong phú. Văn sĩ, nhà khoa học Việt Nam là anh chàng A-la-đanh đứng trước kho báu nhưng quên mất câu "Vừng ơi mở cửa!". Tôi xin nói chuyện khó nghe. Nhưng khoa học không phải là kẹo mà là thuốc đắng. Xin phép đi ngay vào mẹo.

Mẹo một: Xin bỏ lối phân đôi: Tiểu thuyết Việt Nam cho đến nay là tiểu thuyết phân đôi. Tất cả dàn thành thế trận địch / ta hay nói theo lối các em nhỏ: bên ta / bên nó. Các em bé, con của các bạn: nhìn thấy bất cứ cái gì thì hỏi ngay các bạn: bên ta hay bên nó? đấy là tâm lý trẻ thơ. Cái gì muốn lôi cuốn tuổi ấu thơ cũng đều phải tách ra thành hai: bên ta / bên nó. Cổ tích, huyền thoại là xây dựng theo mẹo này. Các bạn sẽ bác lại tôi bảo: chuyện ngắn nổi tiếng thế giới chỉ có phân hai, kịch cũng thế mà vẫn hay là tại sao? Tôi xin thưa: kịch là kịch; truyện ngắn là truyện ngắn; truyện dài là truyện dài: ba phạm trù khác nhau. Tôi rất thích tính thao tác trong định nghĩa về sự khác nhau giữa kịch với tiểu thuyết của anh Vi Huyền Đắc mà anh Nguyễn Đình Nghi kể lại cho tôi nghe "Ta có cái bánh chưng. Kịch là một nhát cắt giữa cái bánh chưng. Còn tiểu thuyết là lần lượt bóc cái bánh chưng ra". Cái hay của kịch và truyện ngắn là chỉ bằng một lát cắt ta có một khái niệm cần yếu (pertinent). Do đó, truyện ngắn và kịch hay không phải ở cái tự nó nói lên mà cái người ta thêm vào, ở sức gợi mở. Một truyện ngắn mà cái kết không gợi mở được điều gì, không đẩy người xem vào những suy nghĩ rộng lớn hơn thì chắc chắn là dở. Còn tiểu thuyết dài lôi cuốn bằng bản thân nội dung. Cho đến nay, chưa có một hình thức nghệ thuật nào chứa đựng nổi một dung lượng bao la bằng tiểu thuyết dài. Nhưng khi người ta phân đôi thì lập tức cái dung lượng ấy bị bóp méo, cắt cụt, trở thành nghèo đi.

Một câu chuyện tình nếu chỉ có một anh Dũng và một chị Loan thôi thì kéo dài quá 200 trang sẽ hụt hơi nhưng nếu có Dũng 1, Dũng 2, Dũng 3. Rồi lại có Loan 1, Loan 2, Loan 3. Mà anh Dũng 1 thích chị Loan 3, trong đó chị Loan 3 lại thích ông Dũng 2 thì kéo dài mấy cũng được. Một cuốn phim nếu chỉ có hai phe Tôn Sĩ Nghị - Chiêu Thống / Quang Trung thì làm được như "Thăng Long đệ nhất kiếm" là đã được lắm rồi. Nhưng nếu thêm một nhóm thứ ba chỗ này thích vua Lê, chỗ kia thích ông Quang Trung, nhóm ấy bị phân hóa rồi chao đảo chạy từ bên này sang bên kia và ngược lại thì có dàn ra 10 tập cũng vẫn ăn khách. Rồi cảnh theo Chiêu Thống cũng chao đảo... Và cứ thế. Tôi rất sợ các thuật ngữ "hiện thực", "mỹ học" v.v... Nhưng trong thực tế là đúng thế. Một bên đế quốc, một bên Đảng. Cái đó chịu rồi. Chẳng bao giờ đế quốc có thể đế quốc hóa được Đảng và ngược lại cũng chẳng bao giờ Đảng có thể cộng sản hóa được đế quốc. Nhưng nếu trình bày tiểu thuyết phân đôi như thế thì cách nào kéo dài mà hấp dẫn mãi được? Còn một số cực kỳ đông đảo thích Đảng không thích đế quốc, nhưng có nhiều băn khoăn đối với Đảng và nhiều lo sợ đối với đế quốc. Nhóm này đã chao đảo, phân hóa, khi theo bên này, lúc sang bên kia. Và cứ thế bản thân sự thực cho thấy thế nào là đúng, thế nào là sai. Làm thế chẳng mất tính tư tưởng chút nào mà lại kéo được đô la về. Sao mà các bạn nhát gan thế?

Sao các bạn không "đọc" Tam Quốc Chí? Đây là một bằng chứng hiển nhiên cho thấy cái lý thuyết "tam phân" lôi cuốn người ta như thế nào. Cơ sở của nó là sự xuất hiện ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Ba nước ấy đều có ba nhân vật kiệt xuất Tào Tháo, Gia Cát Lượng, Chu Du. Rồi mọi âm mưu xuất hiện: liên kết, chia rẽ, tấn công, hòa hiếu... Âm mưu nào cũng phải tính đến hai đối tượng. Một nhân vật cự phách chết đi, tình hình có lao đao một lát nhưng một nhân vật mới lại xuất hiện để thay thế. Khi một trong ba nước bị tiêu diệt thì câu chuyện xem là kết thúc, không cách nào kéo dài mà lôi cuốn được nữa. Thủy Hử thực chất là quá trình phân hóa của nhóm thứ ba. Mỗi người tùy theo gia đình, học vấn, hoàn cảnh, tình thế riêng đều lên Lương Sơn Bạc, nhưng đều lên theo những cách khác nhau. Tôi nghĩ nếu ta chấp nhận cách lý giải ấy thì không thể nào thiếu những "Sông Đông êm đềm", những "Chiến tranh và hòa bình" được.

Viết tiểu thuyết cũng như đánh giặc, vấn đề là phải thắng. Việc gì phải đánh theo lối người ta? Nếu Trần Hưng Đạo vác ngựa Việt Nam ra chọi với ngựa Mông Cổ thì dù người Việt có anh dũng đến đâu, ta cũng thua. Ta thắng Pháp, Mỹ bằng lối đánh của ta. Vậy ta cũng phải thắng trong tiểu thuyết dài bằng lối đánh Việt Nam. Đằng sau một biện pháp nghệ thuật là một bề dày về văn hóa. Có một bề dày của Văn hóa Việt Nam mà tiểu thuyết phải tận dụng. Lối phân đôi có thể thành công ở một xã hội chia ra hai tuyến rạch ròi. Nhưng xã hội Việt Nam không có tình trạng ấy. Một Thành Thái, một Duy Tân vẫn có thể bỏ ngai vàng chống thực dân. Một Hồ Đắc Điềm vẫn chung thủy với Cách mạng dù đã từng là tổng đốc; rể một ông tổng đốc và con một ông thượng thư đầu triều. Đó là cái kỳ diệu của cách mạng Việt Nam. Theo nhị phân là cắt đứt cái kì diệu của cách mạng, khuôn thực tế vào cái khung cứng nhắc của siêu hình học. Chính tôi nghe chú Điềm nói: "Một người họ Hồ Đắc không đào ngũ". Đấy là lời tuyên ngôn của họ Hồ Đắc, một trong ba họ lớn nhất Huế, có nhiều quan nhất với cái biển kiêu hãnh của nhà thờ "Toàn gia vô bạch đinh" (Tất cả họ không có ai là dân chân trắng). Đảng đã giành được trái tim của nhân dân trước khi giành chính quyền. Một anh bạn học của tôi, sau này làm quan ba trong ngụy quyền gặp tôi năm 1955 ở Sài Gòn khi hai người ở hai chiến tuyến (tôi là sĩ quan bộ Tổng tư lệnh): "Tại sao sau Điện Biên Phủ không đánh dấn đi? Bọn mình đang rục rịch nổi dậy". Tiểu thuyết dài Việt Nam chỉ có thể chinh phục được thế giới bằng nhân cách Việt Nam cũng như Việt Nam đã đánh bại đế quốc bằng nhân cách ấy.

Tại sao ta lại bỏ chỗ mạnh của ta chạy theo chỗ mạnh của phương Tây là xác thịt, cô đơn và tội ác? Tôi thú nhận có máu nhà Nho, lại thêm thời gian học ở trường Thiên Chúa giáo, rồi vì mê Kant mà đọc Kinh Phật. Tôi có thể là một thứ Khốt-ta-bít. Nhưng các bạn ơi, các bạn vác xác thịt, tội ác và cô đơn vào đây thì làm sao lôi cuốn thế giới được? Khoản này cũng như cái khoản ngựa Mông Cổ; người ta hơn các bạn nhiều và không bao giờ các bạn đuổi kịp người ta đâu. Sự say mê xác thịt là xuất phát từ văn hóa Hy-La, được nâng lên thành võ khí thời Phục Hưng để chống lại nhà thờ Thiên Chúa giáo. Nỗi cô đơn là hậu quả tất yếu của một xã hội chỉ biết có cá nhân. Còn tội ác trong nghệ thuật phương Tây bao giờ cũng chỉ nhằm một mục đích là giành lấy của cải mà không bao giờ là để giành lấy quyền lực. Vì sao? Vì quyền lực ở họ là vật luân chuyển hôm nay người này được, ngày mai người khác được. Chỉ có tài sản là ổn định, ở Việt Nam thì khác. Cái xấu xảy ra, trừ trường hợp bọn lưu manh, là để giành lấy quyền lực. Vì quyền lực là cái ổn định, tự nó đưa đến tài sản mà không phải cố gắng gì hết. Còn tài sản thì lập tức biến mất khi quyền lực tan đi nên không hơi đâu mất công vì cái bong bóng xà phòng.

Trở lại câu chuyện tiểu thuyết dài. Khi các bạn đưa các pha "ngày xưa" cho là tự nhiên chủ nghĩa, là phi đạo đức thực tế các bạn đã làm một việc hữu ích để cho các cụ già Khốt-ta-bít nhận thức được cái thực tế mới. Nhưng nếu sa đà vào chuyện này thì sẽ chẳng lôi cuốn được lâu. Bởi vì, Việt Nam đâu chỉ có những đau khổ chung của thế giới? Nó có những đau khổ riêng. Mà những đau khổ này một cá nhân đơn độc không thể chống lại. Cần có sự chung lưng đấu cật của cả một dân tộc để sau khi thoát khỏi nô lệ, trở thành đất nước dân chủ, phồn vinh. Cái sức mạnh để dẫn tới điều kỳ diệu này chắc chắn không thể lấy ở xác thịt người đàn bà, tội ác, cô đơn. Nó phải lấy ở cái vốn nhân cách của đất nước, cái vốn chỉ mới hôm qua thôi đã làm được những việc kinh thiên động địa. Chúng ta sẽ là con em cha anh chúng ta hay là những đứa con phóng đãng trong Kinh Thánh?

Khi chúng ta phân đôi thì cái thu hút người đọc sẽ không phải là tình thương mà là thù hận, không phải là đạo đức Hồ Chí Minh mà là giáo điều sách vở. Phải viết như thế mới là hiện thực ư? Đó là hiện thực của ba mươi năm binh lửa sao? Tôi biết người ta sẽ dẫn ra vô số câu để bảo vệ cái gọi là chân lý. Mời các vị lý luận gia nhìn các nghĩa trang: Đó là câu trả lời hùng hồn hơn mọi lý luận. Những người nằm dưới mộ sẽ trả lời họ thuộc đủ mọi thành phần gia đình, đủ mọi tôn giáo, đủ mọi tầng lớp. Quá khứ họ hết sức khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở đây, đều chết cho mục tiêu của Đảng: Tầng lớp thứ ba có lỗi gì mà bị gạt khỏi văn học? Phải gạt ra như vậy thì mới có tính Đảng, mới có giá trị giáo dục sao? Theo tôi thì trái lại: Các bạn có thừa thực tế để hiểu sự thực.

Nói phân ba là nói có thể phân bốn, phân năm. Bởi vì cái phần thứ ba kia có thể tách đôi, tách ba. Trong cái hàng ngũ này luôn luôn có mâu thuẫn, đối lập, chỗ này chia rẽ, chỗ kia hợp nhất. Khi làm như vậy không phải chúng ta biến thực tế thành giáo điều mà chính là đưa ra cái thực tế vĩ đại có khả năng thu hút thế giới gấp vạn lần xác thịt, tội ác và cô đơn.

Đó là mẹo một.

(Còn nữa)

P.N
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.