Vài điều về tư tưởng nghệ thuật trong “Cơ hội của Chúa”

15:26 25/02/2010
ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

Ảnh: Internet

Trong thời gian qua, tiểu thuyết “Cơ hội của Chúa” cũng giống như một số tác phẩm khác đã tạo ra hai luồng định giá trái ngược nhau. Trong thời buổi này, trong mênh mông sách vở và các phương tiện giải trí khác, mà người ta, từ già đến trẻ, từ trong Nam đến ngoài Bắc, vẫn kháo nhau tìm đọc một quyển sách gần 500 trang, của một tên tuổi xa lạ, lại còn bàn luận xôn xao..., không có "văn tài", không thể tạo ra được một hiệu ứng như vậy, nhất đó lại là tác phẩm sáng tác chứ không phải loại chuyện giật gân, hoặc kiểu viết lách thóc mách, tọc mạch. Chính cái văn phong chững chạc, biến hóa, đầy ấn tượng, mạch văn gọn, ý tưởng nhiều, những mảng hiện thực được phản ánh đúng... của cuốn tiểu thuyết đã tạo ra được như vậy.

Đã có những tác giả phê phán “Cơ hội của Chúa” triết lý quá nhiều. Tôi thấy việc triết lý nhiều hay ít trong tác phẩm không có lỗi, bởi một tác phẩm có tầm khái quát và tầm cao triết lý luôn là sự phấn đấu và mơ ước của nhiều người viết. Chỉ có điều cần phải xem là sự đúng sai, cũ mới, cao thấp của những vấn đề đó. Có tác giả phê phán “Cơ hội của Chúa” như một sân chơi của nhóm trí thức lưu manh. Tôi cũng không đồng tình cho lắm, ở chỗ, việc viết về những nhân vật tốt hay xấu đâu có là vấn đề phải bàn đối với người viết. Người viết chỉ đáng bị chê trách khi xây dựng một nhân vật xấu lại không thành một nhân vật xấu mà thôi. Về mặt nào đó, một số nhân vật trong “Cơ hội của Chúa” đã được xây dựng khá thành công, có thể còn là hình mẫu cho khá đông một lớp người trong cuộc sống hiện nay. Đó là những con đẻ của chủ nghĩa thực dụng, những thị dân lọc lõi, bon chen, giành giật, chơi trội... Nhưng họ chưa phải là những kẻ lưu manh thực sự. Họ vẫn giữ được những đức tính tốt cơ bản như: tình mẹ cha, anh em, bạn bè, sự trung thực, sòng phẳng trong đối xử cá nhân, sự căm ghét cái giả trá, lươn lẹo... Chỉ có điều quan niệm của họ về đạo đức, tình yêu, tình dục, về cách thức làm ăn... Có "thoáng" hơn lớp cha anh xưa. Về tên cuốn tiểu thuyết, có người khuyên Hà không nên đặt là “Cơ hội của Chúa”.

Theo tôi, với điều mà tác giả muốn gửi gắm, cái tầng ý tưởng sâu nhất mà tác giả muốn thể hiện, thì không tên nào phù hợp bằng cái tên đó, cũng như hai màu giai thoại, hai câu chuyện cổ cũng được tác giả cài đặt khéo léo, chúng có một ý nghĩa thống nhất với các ý tưởng tác giả muốn gửi gắm ở cái tên sách kia. Khi đặt mình vào vị trí của người sáng tác, khi vò đầu bứt trán mà vẫn không viết nổi một câu văn của riêng mình, thì để đạt được những điều như Nguyễn Việt Hà vừa kể trên cũng không dễ. Một người ít học ít đọc không có tài văn không thể viết được một cuốn sách như “Cơ hội của Chúa”. Mặc dù vậy, ai cũng biết, giá trị của một tác phẩm không chỉ ở chỗ khéo viết, văn hay chữ tốt, mà còn ở tư tưởng của tác phẩm, khả năng tái hiện cuộc sống sống động như thế nào. Tiếc là ở mặt này, Nguyễn Việt Hà vừa có điểm mạnh lại vừa có điểm yếu. Mạnh vì anh có tri thức, nhưng cũng yếu vì tri thức ấy vẫn chưa đủ cao, đủ sâu để giải quyết thỏa đáng những bài toán về tư tưởng mà anh đặt ra vào thời điểm hiện nay.

Về cách viết của Hà cũng vậy. Hà sử dụng phương pháp ấn tượng, chỉ nhấn những nét chính (Hà coi tiểu thuyết là bản nháp của cuộc sống), khắc phục được sự kể lể dài dòng, mạch văn đi nhanh, cầm chân được độc giả, nhưng những nét nhấn, những nét vẽ phác ấy vẫn chưa đủ độc đáo, nên những nhân vật cũng như hiện thực được tái hiện không sống động, còn sơ lược. Muốn đạt được điều này, tức là vẽ phác thôi mà vẫn sống động, tác giả cần phải có sự am tường hoặc vốn sống về tất cả những lĩnh vực mà mình muốn thể hiện. Hà rất đạt khi khắc họa tâm trạng, tình cảm, cá tính, những sinh hoạt thông thường (như ở nhà, quán ăn...) của nhân vật. Nhưng những việc chính như nghề nghiệp, chuyện làm ăn, khả năng... thì, theo kiểu con hát mẹ khen hay, những nhân vật Hà dựng lên: nào là tài năng, nào là thông minh, rồi chí lớn... lại chỉ như đứa bé hát không hay kia, đã không đủ thuyết phục. Từ nhân vật chính là Hoàng, chỉ hiện lên qua một cơ quan cũng chẳng rõ cơ quan nào, một người ngoài tài đánh đàn nghiệp dư, viết vài truyện ngắn, bàn luận được vài tư tưởng của người xưa, có đức tin Thiên Chúa... là hết. Vậy Hoàng đã hiện lên không phải theo ý tác giả: là một con người xuất chúng, một công dân mà trình độ và những cơ chế của thế kỷ này còn quá chật chội đối với tài năng, một con người của thế kỷ tương lai, mà thực chất chỉ là một con người bất đắc chí, yếm thế, quẫn trí, và đặc biệt, một người nát rượu. Tác giả đã rất thành công trong việc dựng được một người nát rượu, tất cả đều rất chi tiết và sống động: từ không gian quán xá đến thời gian, từ cách thức uống đến lượng uống, nhìn chai rượu là để ý nó còn bao nhiêu, nhìn những loại rượu là nhẩm tính xem thành tích của mình đã uống được mấy loại, hành động đầu tiên khi gặp nhau là rót rượu.

Với những nhân vật khác cũng vậy: người này làm ăn lớn, người kia là nhà khoa học tài năng, người là con ông cháu cha thế lực mạnh... tất cả cũng chỉ hiện lên bằng những nét vẽ phác, tác giả cũng không đủ sự am tường, nên sự xuất hiện của họ cũng chỉ như một sự gán ghép, luôn muốn chơi trội của những kẻ sĩ hãnh tiến hơn là những người vật lộn kiếm sống, ham làm giàu, ham quyền lực. Bởi những người thiên về hành động như vậy thường không quá nhạy cảm, không quá suy tư triết luận như những nhân vật trong “Cơ hội của Chúa”. Có thể lấy ví dụ về việc Hà không đủ sức tạo dựng một nhân vật như nhân vật Thắng, một tài năng không gặp thời. Một nhà nghiên cứu tài năng gì đâu mà chưa làm đã đốt cháy phòng thí nghiệm, công việc nghiên cứu triển khai ghế ghớm gì đâu mà chỉ là tái chế nhựa phế thải... Có những điều, chỉ một vài chi tiết nhỏ nhưng nó lại chứng tỏ người viết không hiểu một chút nào về cái lĩnh vực muốn tái hiện, như trong đoạn viết về Thắng, Hà viết: những hạt nhựa"tinh thể nhựa", Nhựa là hợp chất cao phân tử, vô định hình, không kết tinh, nên không thể có tinh thể được. Nói chung, vốn sống, sự từng trải, sự am tường các lĩnh vực... luôn là gánh nặng với mỗi người viết. Nhưng muốn tạo dựng được một tác phẩm chân thực, sống động, người viết buộc phải học hỏi. Một diễn viên đóng vai võ sĩ không nhất thiết phải chính là võ sĩ, nhưng không thể không biết múa võ.

Ai cũng biết tác phẩm văn học không phải là sách truyền bá tư tưởng và dạy đạo đức. Nhưng để là một tác phẩm có giá trị cao, không phải là một tác phẩm phản ánh thô sơ, câu chuyện trần thuật trần trụi, một mớ ngôn ngữ được xào xáo trống rỗng... nó phải chuyên chở những tư tưởng, phải hướng người ta đến những điều cao đẹp hơn về lương tri và đạo lý. Người ta gọi đó là tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, tức là tư tưởng được tạo ra, được cài đặt bằng nghệ thuật viết văn. Một nét đáng quý là Nguyễn Việt Hà đã cố gắng tạo ra một tác phẩm có tính chất như vậy. Có điều, cách giải quyết những bài toán về tư tưởng mà anh đặt ra lại không thỏa đáng, chúng rất cũ và đầy tính siêu hình, yếm thế. Nếu văn phong của Nguyễn Việt Hà có nhiều sáng tạo về ngôn ngữ và hình ảnh thì về mặt tư tưởng nghệ thuật, Hà không có một ý nào mới có giá trị, nếu có lại chỉ là nói ngược.

Nguyễn Việt Hà đã dựng lên những con người, với hoàn cảnh và lối sống khác nhau, và cho tất cả các nẻo đường đời của họ đều "cụt ngõ". "Thiên tài" Hoàng, có "khả năng" như một nhà tư tưởng lớn nhưng chỉ được xếp làm một nhân viên trực điện thoại, yêu nhưng bị chiếm đoạt tình yêu, thì không tìm được chỗ dung thân nơi nền văn minh kỹ trị. Nhã, người đàn bà xinh đẹp và tháo vát, lao vào làm giàu như để giải thoát khỏi nỗi khao khát tình yêu nhưng không được, và cũng không bao giờ có được một tình yêu đích thực, bởi người đời luôn đặt hoặc "lợi" hoặc "danh" lên trên nó. Tâm, em Hoàng, một người có chí lớn, đã đặt sự nghiệp làm giàu lên trên hết, trên cả tình yêu, trên cả học vấn (bỏ học đại học, bỏ người yêu đi xuất khẩu lao động), ước mơ là một triệu phú đô la đầu tiên, cũng không thể đạt được ước vọng đó, bởi cơ chế xã hội không cho phép, còn Bình, con ông cháu cha, thông minh đẹp trai, có địa vị để đạt được tất cả, nhưng thực chất vẫn không đạt được gì, bởi cái địa vị ấy là nguyên nhân của sức mạnh cũng đồng thời là nguyên nhân của sự tha hóa (Hai bố con loạn luân quan hệ cùng một cô gái, muốn có tình yêu phải đi chiếm đoạt người yêu của anh ruột bạn mình)... Sự cùng quẫn có thể tóm gọn trong suy tư dằn vặt của nhân vật Hoàng: "Mình là cái gì. Một con zero tròn trĩnh", "Mình hiểu chậm quá... Làm gì có sự đổi thay... Mọi thứ từ từ mủn", "Đã nhiều lần tôi không biết ngày mai tôi làm gì", "Mọi người loay hoay trong sự lờ đờ"...

Theo Nguyễn Việt Hà, cái nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên cũng nằm gọn trong đoạn văn sau: "Ở đâu có sự thô bạo của kiến thức ở đó có đông đạo đức giả. Rời vòng tay của Chúa, con người ta loay hoay tìm cách hoàn thiện bản thân mình... Chúng ta đã gay gắt chối bỏ ân sủng của Thiên chúa bằng nhiều lý do nghe có vẻ hữu lý. Một nhà Thần học đã phải đau đớn nói "Con người ta đã mất đất Mẹ và đã phải lang thang đi tìm đất hứa". Cái miền đất hứa được thế tục hóa bằng sự giàu sang tiện lợi của nền văn minh... Camus cho rằng sự dốt nát dẫn đến độc ác. Vậy giải thích thế nào về những người có học hình như đã làm điều ác... Phải chăng họ đã coi những giá trị tư tưởng vĩnh cửu của các bậc minh triết tiền bối là lạc hậu... Với cách hiểu ăm ắp đầy sách vở, họ coi mọi phương thức đối thoại với im lặng đều là vô nghĩa. Hình như, tất cả nỗ lực của bọn họ sẽ tạo ra được một điều khó tránh, con người đi vào thế kỷ hai mươi mốt bằng tư thế ngã ngửa, bởi cú hích bạo tàn của nền văn minh kỹ trị... "

Trước hết tôi muốn nói, những ý tưởng chính trong cuốn sách này vừa dẫn ở trên, thực chất Nguyễn Việt Hà cũng nói theo người khác. Husserl từng lo ngại nền khoa học đã coi thế giới chỉ còn như một đối tượng khảo sát của kỹ thuật, càng hiểu biết con người lại càng mất đi cái nhìn tổng thể về thế giới và về chính bản thân mình. Heidegger gọi đó là: "Sự quên mất con người". Có điều, đây chỉ là sự nhạy cảm quá đáng đầy tính bi quan yếm thế của những cha đẻ chủ nghĩa hiện sinh, nhưng họ suy nghĩ như vậy dù sao cũng phần nào có lý do bởi ở vào cái thời điểm thế giới khủng hoảng, chuẩn bị xảy ra đại chiến. Còn ở thời điểm hiện nay vẫn nghĩ như vậy là không đúng với thực tế.

Nhưng nếu căn cứ vào nội dung “Cơ hội của Chúa”, sự cùng quẫn của những nhân vật nói trên thực chất chẳng phải do tri thức theo ý tác giả, mà ngược lại, không ai trong số họ có đủ tri thức để làm việc và sống đứng đắn. Sự cùng quẫn của họ chủ yếu do sự bất tài yếm thế, do làm ăn phi pháp, do buôn lậu móc ngoặc, do thủ đoạn chộp giật... chứ có ai thực sự sử dụng tri thức đâu mà là nạn nhân của tri thức văn minh? Nếu cho họ là nạn nhân của nền văn minh nói chung cũng không ổn.

Vì tư tưởng còn nhiều hạn chế do trình độ có hạn như vậy, trước các tình huống "cùng quẫn" được tạo ra trong tiểu thuyết, cái thông điệp mà Nguyễn Việt Hà đưa ra đã không thỏa đáng. Theo tác giả, chỉ có một lối thoát: "Sự cùng quẫn cuối cùng của con người đấy là cơ hội của Chúa". Chỉ đến với Chúa, người ta sẽ "chấp nhận" tất cả, "tha thứ" tất cả, bởi tất cả "mọi sự đều là ý Chúa", càng bất hạnh trong cuộc đời trần tục bao nhiêu, người ta càng có được tình yêu nơi Thiên chúa bấy nhiêu, và cái thông điệp tối thượng của Chúa chính là "phải chết mới được phục sinh"... Với chính sách tự do tín ngưỡng, chắc không ai quy kết Nguyễn Việt Hà truyền bá tư tưởng sai lầm, nhưng những điều anh nói ra đây đều rất cũ, chúng là những tư tưởng yếm thế, bị động, có thể phần nào phù hợp và cứu rỗi được người ta khi sống trong thời đại lạc hậu mông muội xưa, còn hôm nay, khi mà trình độ con người muốn giải thích cả chính Thượng Đế, muốn sống như chính Thượng Đế (Khách hàng là Thượng Đế), thì không còn phù hợp nữa. Bây giờ liệu có ai còn tin, chỉ bằng đến với Chúa, không làm gì cả, con người sẽ đạt được hạnh phúc không? Liệu ai còn muốn có một loại hạnh phúc "suông", một sự "tự kỷ ám thị", thực chất không phải hạnh phúc mà chỉ là một sự tự đày đọa không? Con người hiện đại nhiều người có thể còn tin vào một thế giới siêu hình, nhưng người ta cũng còn biết tin hơn, yêu quý hơn cuộc sống trần tục này.

Vì vậy, chỉ có cách duy nhất thoát khỏi những tình trạng cùng quẫn trong cuộc sống là phải làm việc. Mà để làm việc có hiệu quả, người ta buộc phải cần đến tri thức. Tất nhiên, đó là tri thức đúng đắn ở trong những cái đầu thông minh, đủ sức tiếp nhận và sử dụng chúng, chứ không phải ở những cái đầu sính chữ, cuồng chữ, thu lượm tri thức không phải để làm việc mà để làm dáng, không đủ sức hiểu đến nơi đến chốn lại hay cao ngạo chê bai vô lối. Trong “Cơ hội của Chúa”, tác giả cũng phê phán diễu cợt những trí thức loại này, tiếc là anh còn phê phán luôn cả tri thức của loài người nói chung, và còn coi nó chính là nguyên nhân gây ra sự khốn cùng của cuộc sống. Qua suy tư của nhân vật Hoàng, tác giả còn cho là: "Thực ra vô nghĩa nhất là đọc sách".

Trong thời gian gần đây, tôi thấy có một khuynh hướng đề cao những sáng tác phản ánh mảng tối của cuộc sống, có điều không phải những tác phẩm có ý nghĩa "báo động", "cảnh tỉnh" mà lại là những tác phẩm gióng lên một "nghịch âm", một "cách nói ngược". Hình như họ cho rằng, đổi mới văn chương là phải chuyển cách viết từ: tốt sang xấu, từ ý nghĩa sang không ý nghĩa, từ thực sang không thực, từ logic sang phi logic, từ cụ thể sang không cụ thể... Mà lẽ ra, tôi nghĩ, người viết không phải chỉ viết thế này hoặc thế kia mà phải viết về tất cả, như chính diện mạo của cuộc sống. Vì thích cách nhìn ngược, nên họ đã có những thái độ sai lầm: khi nền khoa học kỹ thuật của chúng ta con lạc hậu, đã vội chê bai kỹ thuật, khi chúng ta còn ở trong nhóm nước nghèo nhất, chưa có vật chất bao nhiêu, đã vội chê bai vật chất... Tất cả chỉ vì tri thức hạn hẹp, người ta đã không đủ sức khâm phục hoặc chê bai một điều gì cho đúng đắn. Với phương tiện thông tin hiện nay, người ta không khó khăn khi tìm kiếm tri thức, nhưng để hiểu cho chính xác rồi còn biết vận dụng nữa thì không phải ai cũng làm được.

Bình Thạnh 20/10/1999
Đ.L
(131/01-2000)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.