Vài cảm nhận giá trị minh triết của Đông Kinh Nghĩa Thục

14:44 16/10/2008
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

Chỉ tồn tại 9 tháng nhưng hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục được xem là cương lĩnh chấn hưng dân tộc, mở đầu thời kỳ hiện đại của đất nước ta. 100 năm đã trôi qua, lật lại những trang viết cũ,chúng ta vẫn tìm thấy ở đó những lời tâm huyết, những tình cảm thiết tha và những dự báo rất sắc sảo của tiền nhân. Cũ mà rất mới. Nhân kỷ niệm 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục, Sông Hương trân trọng giới thiệu bài viết của Nguyễn Khắc Mai với một cách nhìn minh triết về phong trào này.

Minh Triết, như tôi hiểu là những tư tưởng và rộng lớn hơn là những giá trị văn hoá, có tính khái quát và phổ quát, ý nghĩa rộng, trường tồn có thể đem ứng dụng cho nhiều hệ thống. Chúng đạt tới tính chất của những giá trị xã hội và nhân sinh phổ quát. Minh Triết tham gia vào đời sống xã hội giống như chất tuỷ của một sinh vật. Ta gọi đó là cốt tuỷ, là tinh tuý của một hệ thống xã hội.
Đông Kinh Nghĩa Thục trăm năm trước xuất hiện như một ánh sao băng trong lịch sử hiện đại Việt , một đi không trở lại. Hình ảnh của nó, ánh sáng của nó, hiện tượng của nó ta chỉ ghi nhận được trong khoảnh khắc, nhưng năng lượng nó toả ra thì đã lan truyền mãi trong vũ trụ. Cái năng lượng mà ta cần và phải tiếp nhận từ Đông Kinh Nghĩa Thục chính là những Minh Triết mà những con người thuở ấy đã tạo ra.

1. Minh Triết: “Tuyết Quốc Sỉ” “Hóa Dân Cường Quốc”.
Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra những quan niệm: Quốc gia - Dân tộc - Quốc dân và lòng yêu nước mà ngày nay vẫn tồn tại như những giá trị cập nhật, mà bất cứ ai muốn xứng đáng, không phải xấu hổ với 4 thành tố ấy đều phải học hỏi chiêm nghiệm và tìm cách hành động. Nói hành động là nói cả sự mở mang kiến thức để phá vỡ cái u tối của mình.
Lòng yêu nước trong Đông Kinh Nghĩa Thục thể hiện thành 3 điều:
a. Lo nghĩ về vận nước. “Than ôi! Lo không gì hơn mất nước, buồn không gì hơn thân bị nhục”.
b. Thấy sỉ nhục dân mất nước, thân nô lệ, dân tộc và xã hội yếu hèn, lạc hậu. Các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục gọi là “Tuyết Quốc Sĩ”, làm sạch (Tuyết) nỗi nhục nô lệ, yếu hèn và lạc hậu.
c. Quyết liệt hành động để “ Hoá Dân Cường Quốc”. Đó là một triết lý. Từ đó mà có nhiều chủ trương. Cái triết lý “Hoá Cường” ấy vừa cổ kính vừa cập nhật. Cái quan niệm phải chuyển hoá quốc gia, phải làm cho tiến hoá dân tộc là rất mới mẻ vào trăm năm trước, mà hôm nay nghiệm ra cuối cùng cũng phải “đổi mới". Điều thú vị là nhiều chủ trương đổi mới hôm nay chúng ta đã thấy được đề cập từ Đông Kinh Nghĩa Thục. Để có thể “Hoá Cường” trước hết phải có Độc lập. Để tranh lại và giữ gìn độc lập “Nước phải mạnh”. Nhưng “Nước mạnh hay yếu là do Dân”; “Dân mạnh thì nước yếu có thể chuyển thành mạnh, và mạnh lâu dài”. Phải đổi mới cái tư cách của người dân. Lần đầu tiên, chắc là như thế, Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra quan niệm Quốc dân là một quan niệm tiên phong, đi trước thời đại cả 100 năm. Quốc dân chính là cái lõi, cái xương sống của nhân cách quốc gia, dân tộc. Quốc dân phải là những người “rõ cái lý tương quan giữa dân và nước… biết vị trí của họ trong xã hội… để gây ý thức ái quốc, ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự lập”. “Muốn nước được bình trị mà mong ở vua hiền tướng giỏi thì không bằng mong ở dân mạnh”. Ngày nay chúng ta thừa kế tư duy ấy đã ghi được vào Hiến pháp một số điều cơ bản về nhân cách và quyền của Quốc dân (công dân). Không thể nói rằng cái lý tưởng xây dựng Quốc dân với tư cách là “cường dân” hoàn chỉnh như Đông Kinh Nghĩa Thục mong ước, chúng ta bọn hậu thế không làm được gì, nhưng để đạt cho được cái Minh Triết Quốc dân ấy còn phải sửa đổi và làm nhiều hơn nữa. Quan niệm Quốc dân “Dân mạnh” của Đông Kinh Nghĩa Thục quả thật sắc sảo, cấp tiến có khi vượt xa với quan niệm nhân dân mơ hồ và dân giàu chỉ nói được một khía cạnh.  Quan niệm dân mạnh của Đông Kinh Nghĩa Thục bao gồm “mạnh về trí tuệ học vấn năng lực khoa học, công nghệ và thực nghiệp, mạnh về phẩm chất đạo đức yêu nước, bác ái, tiến thủ cạnh tranh, biết vị trí của mình trong xã hội, mạnh về ý thức thực quyền, không nhất nhất trông chờ chính phủ, bởi vì “quan cũng chỉ là một người dân nắm chính quyền”; thiết thực nhất là mạnh vì có sản nghiệp và biết làm chủ sản nghiệp”.

Triết lý “Hoá Dân, Cường Quốc” của Đông Kinh Nghĩa Thục đặt ra một loạt vấn đề có tính hệ thống từ xây dựng một chính thể dân chủ của Việt Nam, do Việt Nam, vì Việt Nam, một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam (mà năm 1945 Hồ Chí Minh đã cảm nhận và nói ra). Một nền kinh tế biết coi trọng và phát triển cái vốn (tư bản) coi trọng nông, công, thương, coi trọng luật pháp để bảo vệ tài sản, bảo vệ hoạt động công thương… coi trọng phát huy mọi phương thức, phương tiện hiện đại để phát triển và quản lý kinh tế.
“Hoá Dân Cường Quốc” để đạt tới văn minh và tiến bộ, để có sức mạnh nội lực mà giữ gìn độc lập. “Hãy làm cho nước Nam của ta càng văn minh kế ấy là kế của nước, cũng tức là của bản thân mình”. Bởi vì “không thể như trăm năm trước nữa, cứ đóng cửa mà trị dân, dù không tiến bộ cũng có thể ngồi mà giữ nước”.

2. Minh Triết về “Chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân”.
a. Để “Hoá Dân Cường Quốc”, giáo dục phải là giải pháp hàng đầu. 100 năm trước Đông Kinh Nghĩa Thục đã khẳng định. Nay học theo Minh Triết ấy mà nêu khẩu hiệu: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đem tư tưởng của người xưa kết hợp với kiến thức hiện đại để làm cho thật sự có kết quả.
b. Phải phổ cập giáo dục “làm cho cả nước văn minh thì phải có giáo dục phổ cập”. “Giáo dục phổ cập là cả nước không một người nào không được đi học”.
c. Mục tiêu giáo dục “theo lý chung thì học là để có ích cho bản thân mình và cho quốc gia, xã hội. Có ba điều, một là học vệ sinh, tức là học phương pháp làm cho thân thể cường tráng, không bệnh tật. Hai là học trị sinh, tức là học phương pháp làm cho có thức ăn, đồ mặc và quản lý sản nghiệp, ba là học làm người, làm quốc dân, tức là học cách tự kiềm chế và cách đối xử với quốc gia, xã hội”. Đấy quả thực là thiên tài Việt. Bởi vì phải 100 năm sau Jacque Delors mới tổng kết thành ra 3 cột trụ của giáo dục hiện đại (1). Ngôn từ khác nhau nhưng ý tưởng thật tương đồng. Đông Kinh Nghĩa Thục còn chủ trương “Dục khai dân trí tiên khai nhân trí”. Nay ta cũng đang có nhu cầu cấp bách nâng cao quan trí, sĩ trí.

d. Phải bỏ lối học khoa cử vì hư danh và để làm quan. Vì “khoa cử nọc độc, khoa cử thối nát”. Cổ vũ giáo dục thực nghiệp, học và thi cử gắn với công việc. “Để cho cái mà học sinh học và thi không trái với công việc thực tế họ phải làm”. Đề cao một phương pháp học tập thật văn minh, tiến bộ (mà ngày nay chúng ta cũng chưa làm được); “đặt đề mà hỏi. Cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do không phải nề hà, không cần thể cách gì hết”. Nhà trường không khép kín, nhà trường mở ra với những nhiệm vụ và hoạt động cứu nước, chấn hưng văn hoá và xã hội.
e. Đông Kinh Nghĩa Thục còn có một Minh Triết vô ngôn. Đó là nhân cách và vai trò của người thầy, của kẻ sĩ, của trí thức của dân tộc và thời đại. Nhân cách người thầy, nhân cách kẻ sĩ của các cụ Đông Kinh Nghĩa Thục thật cao cả. Họ để lại bài học quí giá cho hậu thế.
Tiểu kết cho mục minh triết về Giáo dục này tôi chỉ xin nêu một câu hỏi cảm khái tại sao ông Bộ Trưởng và toàn ngành giáo dục không nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngôi trường vĩ đại ấy của dân tộc mà tổ chức một cuộc học hỏi thật nghiêm túc và thông tuệ để tiếp thêm năng lượng cho sự nghiệp đổi mới nền giáo dục hiện nay?

3. Minh Triết “Chấn hưng công nghệ”, xây dựng một nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cuờng có nông công thương tín phát triển theo qui luật phổ biến với những phương thức hiện đại. Coi trọng công nghệ. “Công nghệ rất quan hệ với quốc gia. Ta không hơn người thì người sẽ bỏ rời ta. Tiền của phung phí ra ngoài nước, không còn gì tệ hại hơn thế nữa”. Coi trọng tiến thủ và cạnh tranh: “Cạnh tranh là để tồn tại" “Chỉ có thể tin cậy vào sự cạnh tranh của dân ta mà thôi”. Coi trọng sản nghiệp: “Thế giới càng văn minh thì của công càng ít, của riêng càng nhiều”. “Sản nghiệp nên là của riêng, không nên là của công”. Các tài sản vô hình (sáng chế, kỹ thuật của nghệ nhân, nhãn hiệu, tác phẩm, thư tín…) đều được coi là sản nghiệp. “Nước càng văn minh thì pháp luật bảo vệ sản nghiệp càng tường tận”. Phải coi trọng nhà doanh nghiệp. “Giá như người giàu bỏ vốn ra phát triển công nghiệp thì dân ta sẽ cảm kích, xưng tụng, sao lại sinh lòng đố kỵ”. Đường lối đố kỵ doanh nhân tai hại cho dân cho nước ai cũng rõ.

4. Minh Triết “Chính phủ chỉ là người trong quốc dân nắm chính quyền”.
Đông Kinh Nghĩa Thục nêu cao tinh thần dân tộc, nhấn mạnh cái ý thức quốc dân là chủ thể của nhà nước của xã hội, là nguồn lực của mọi hoạt động. Quốc dân có quyền lợi và nghĩa vụ. Chính phủ, cảnh sát, luật pháp… phải bảo vệ nhân dân, bảo vệ mọi sinh hoạt và quyền lợi của dân; “phải nghĩ rằng dân là gốc của nước, không thể bắt dân theo ý muốn của mình, chẳng phải chỉ không bạo ngược mà thôi”. “Phàm những quyền lợi mà dân đáng được hưởng thì phải theo chừng mực mà cho dân hưởng”; “Quyền chính sự một nước không thể để một người nắm hết”; “Quan đáng tôn, đáng trọng nhưng cũng chỉ là một người dân nắm chính quyền”. Nhiều ý tưởng minh triết như thế về sau này Hồ Chí Minh cũng thường nói đến.

Văn thư chính thống của Đông Kinh Nghĩa Thục có nói đến hai chữ chủ nghĩa. Chủ nghĩa mà Đông Kinh Nghĩa Thục nói tới có rất nhiều nội dung. Có thể lấy ngay ý tứ và chữ nghĩa mà Đông Kinh Nghĩa Thục để lại để đặt tên cho nó là chủ nghĩa Dân Bản Việt Nam. Vì một Tổ quốc Việt Nam độc lập, trường tồn, có dân trí, đạo đức, văn minh, có sản nghiệp, vì một thể chế chính trị dân chủ, nhân văn, tiến bộ… chính là thông điệp thiêng liêng và cao cả mà Đông Kinh Nghĩa Thục gửi đến cho chúng ta. Xin hãy nghe một câu nói của một nhân vật chủ chốt của Đông Kinh Nghĩa Thục là cụ Nguyễn Hữu Cầu nói với môn sinh trước lúc mất: “Nền tự do này, độc lập này mà đồng bào ta vừa giành lại được chúng ta phải giữ gìn trong lĩnh vực tinh thần. Chính bằng nghệ thuật và khoa học mà các dân tộc trường tồn. Chúng ta cần dõng dạc và tự hào khẳng định mình là một quốc gia. Phải làm sao thông qua nghiên cứu ngôn ngữ mà nghiên cứu dân tộc và làm sao in đậm trong tâm hồn tính cách hoàn toàn Việt . Ngày nay chúng ta quá Tây, quá Tàu, chúng ta là những người giáo điều “ba rọi", những người xã hội chủ nghĩa quyền hành. Chúng ta phải chính là Việt”.

(Trích từ Une Grande Figure De Lettré - của Nguyễn Văn Tố - Báo Le Peuple 4 – 8 – 1946 Hà Nội).
Chúng ta phải chính là Việt”. Chính vì thế mà với những gì đã làm được, Đông Kinh Nghĩa Thục xứng đáng là trường học vĩ đại của Dân tộc trong thời hiện đại".
Cần phải đào sâu vào tầng đá cứng may ra mới tìm được hạt kim cương. Phải công phu nghiên cứu để khai thác cho đăng những giá trị văn hoá mà tiền nhân để lại. Và nếu quên ông cha thì tâm hồn Việt cũng đã nhạt nhoà nhiều lắm. Xin cúi lạy Anh linh các bậc tiền bối của Đông Kinh Nghĩa Thục.
N.K.M

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



------------
(1): 3 cột trụ của Jacque Delors học để làm người làm việc, học để biết sống với người khác, học suốt đời.
Những chỗ trong ngoặc kép là câu chữ của văn thư Đông Kinh Nghĩa Thục.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).