Ưng Bình Thúc Giạ Thị qua những vần thơ tự thuật

15:03 27/08/2008
TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

Làm quan nhưng không màng danh lợi:
Thuở ra sân khấu không làm rộn
Khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi
Được nghỉ hưu, ông xem như một sự giải thoát: “lưng tôm khỏi phải cúi lòn”
Là một Vương tôn, thế gia vọng tộc, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị nổi tiếng là một người  sống giản dị, thanh bạch, dân dã. Thơ ông đôi lúc là  tiếng nói của dân gian, tiếng nói của những làn điệu mái nhì, mái đẩy; tài hoa mà dung dị đến độ trở thành thơ ca của đại chúng, thành câu hò dân dã nhưng da diết lay động tình người:
Trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non

Thơ ca của Ưng Bình Thúc Giạ Thị dung dị, hồn nhiên nhưng lại phảng phất phong vị hàm súc của thơ ca cổ điển. Thơ ông như một tấm gương phản chiếu bóng dáng một thời của lớp nhà Nho cuối cùng trên đất thần kinh- lớp người  bước vào thế kỷ XX với tuổi hai mươi, sống và làm việc trong các dinh phủ của một kinh thành tàn lụi, cuối đời lại về vui hưởng tuổi già với lớp quan viên hưu trí trong Hương Bình thi xã, nhưng vẫn canh cánh bên lòng mối thương cảm về phận nước lao đao, về sự đời lắm nỗi.
Có lẽ ít ai tự thuật về tuổi tám mươi của mình một các hào hứng như nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị:
Vỹ Dạ thôn có lão Vương Tôn là Thúc Giạ
Ưng ca, ưng hát, ưng giã gạo hò khoan
Ham vui điêu cổ thi đàn
Nghe câu tuyệt xướng muôn vàng cũng mua
Sông Vị ngồi câu vuốt chòm râu ông Lữ Vọng
Lên dù xuống võng đã phá tan giấc mộng phiền hà
Nghêu ngao thú vị yên hà
Tám mươi xuân vẫn đượm đà với xuân

(Tự thuật tám mươi tuổi, 1956)
Và đến 84 tuổi, khi tự giới thiệu về mình, giọng điệu của nhà thơ vẫn đầy hào hứng, cho dù là sự hào hứng của một ông lão bắt đầu nhắc đến kinh kệ:
Đường Thượng Thôn thẳng tới
Đò Bến Cạn đưa sang
Đây đây cửa ngõ tre vàng
Ghé thăm Thúc Giạ nghe chàng tụng kinh
(Cửa ngõ tre vàng, 1960)
Giọng điệu hồn nhiên, phóng khoáng của nhà thơ tuổi tám mươi đôi lúc làm người đọc nghĩ đến hình ảnh của một bậc vương tôn đại thần trí sĩ chỉ biết vui thú điền viên, nhưng thật ra, ở Ưng Bình Thúc Giạ Thị, xen trong cuộc chơi vẫn man mác một nỗi lòng:
Phước của trời cho, lộc của trời
Lần lên tuổi thọ tám mươi hai
Coi con bướm liệng từng quen mắt
Nghe tiếng oanh chào chẳng lạ tai
Son phấn trò hề năng kể lại
Bút nghiên nghề mọn vẫn khoe chơi
Cứ ngâm nga mãi quên đầu bạc
Quên cuộc tang thương trãi mấy đời
(Xuân Mậu Tuất, 1958)
“Cuộc tang thương trải mấy đời” đã dội vào lòng thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị khá nhiều lần, nên trong thơ ông ta đọc thấy nhiều câu tự vấn về mình khá thấm thía:
Sáu, bảy lần lên bậc tám mươi
Sống lâu sức khoẻ đội ơn trời
Chẳng hề nói phách khi ra rạp
Nên khỏi ăn năn chuyện ở đời
(Khai bút năm Bính Thân, 1956)
Không dại, không điên, cũng chẳng khùng
Đêm nằm không ngủ lạ hay không
Lo tuồng ổi lỗi lo tam bậy
Nghĩ chuyện tào lao nghĩ tứ tung
(Đêm nằm không ngủ, 1945)
Đúng là nhà thơ không dại, không điên, không khùng, nhưng nỗi ray rứt “đêm nằm không ngủ” của ông hẳn không phải từ những lo nghĩ “tào lao”, “tam bậy”, “tứ tung”. Đó là nỗi lo của một người không chịu theo lối xu thời, tự biết mình không dễ gì sống trơn tru trên con đường danh lợi lắm chông gai của một thời nghiêng ngả:
Những lời tấu đối tuy quen miệng
Nhưng lối xu bời chữa thạo chân
Tai nặng mắt quàng e dễ vấp
Lui về Nội lách dưỡng thiên chân
(Cáo từ chức Hiệp Lý phủ Tôn Nhân, 1953)
Mong trở về nuôi dưỡng “thiên chân” nhưng với cốt cách của một bậc tài hoa, Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã thực sự sống như một tiên ông hiếm hoi còn sót lại ở thế kỷ XX, một hình ảnh rất đặc trưng của lớp nhà Nho cuối cùng ở xứ Huế: nhà Nho Vương tôn công tử.
Say khi nửa tối vài chung rượu
Tỉnh giấc ban mai mấy chén trà
(Ngẫu hứng,1940)
Hoa tàn lại nở xem không chán
Rượu ít mà ngon uống dễ say
(Ngẫu nhiên, 1940)
Khoẻ đi ăn tiệc rồi coi hát
Rảnh lại trồng hoa với tỉa cây
(Hoạ vần thơ Lưu Giản của Hò Đắc Hàm tiên sinh)
Nhưng như một bậc thi ông, Ưng Bình Thúc Giạ Thị là hình ảnh thực sự độc đáo: luôn tự nhận thức mình là một Vương tôn của Hoàng tộc, một kẻ mê đắm rượu nhưng cũng chỉ vài chung để say với mùi hương, một kẻ mê thơ ca, xem thơ như một nguồn dinh dưỡng. Tự biết cả một cuộc đời lên xe xuống ngựa của ông chỉ là ra vào sân khấu, vị thế của mình cũng chỉ là một vai tuồng trong cuộc chơi của thế sự. Một vai tuồng đôi lúc phải “hổ ngươi” nhưng “ít hổ ngơi” nên dẫu tóc bạc pha sương vẫn thấy mình chưa già, vẫn “lại càng tươi”
Rượu có mùi hương nên uống mãi
Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi
Thuở ra sân khấu không làm rộn
Khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi
Giở tấm gương vàng soi tóc bạc
Sương pha tuyết điểm lại càng tươi
(Khai bút năm Bính Tuất, 1946)
Tìm trong những dòng thơ tự thuật, ta lại thấy Ưng Bình Thúc Giạ Thị hiện lên như một hình ảnh độc đáo - hình ảnh của một thi ông- một vương tôn công tử tài hoa mà dân dã, luôn canh cánh một nỗi lòng với quê hương đất nước.
TTC
(nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.

  • ĐANIEN GRANIN

    Năm ngoái, một tai họa xảy ra với tôi. Tôi đi trên đường phố, bị trượt chân và ngã xuống... Ngã thật thảm hại: mặt áp xuống, mũi toạc ra, tay bị tréo lên vai. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều, ở trung tâm thành phố, trên đại lộ Kirov, cách ngôi nhà ở không xa.

  • PHẠM QUANG TRUNG

    Bàn về hiệu quả của lý luận trong quan hệ với sáng tác, cần phân tách xu hướng lý luận dành cho tìm hiểu sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người nghiên cứu) với xu hướng lý luận dành cho sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người sáng tạo).

  • HÀ VĂN LƯỠNG  

    Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Đời sống văn học không thể thiếu phê bình, nghiên cứu. Nếu xem “tác phẩm văn học như là quá trình”(1) thì phê bình và nghiên cứu là một khâu quan trọng trong chuỗi quá trình đó.

  • PHAN TUẤN ANH

    1. Nguyên tắc thẩm mỹ facebook và lối đọc status - entry
    Những tác phẩm của Đặng Thân như Ma net mà đặc biệt là 3339 [những mảnh hồn trần] từ khi ra đời đến nay đã trở thành những “cú sốc văn hóa” mini trong đời sống văn học Việt Nam.

  • BÙI BÍCH HẠNH

    Cất tiếng như một định mệnh của quyền năng nghệ thuật giữa phố thị thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX, người thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng tuyên ngôn nghệ thuật khởi từ ca dao sang tự do, đã tham dự vào thi đàn vốn nhiều biến động với tư cách một hữu thể mưu cầu phục sinh.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.

  • INRASARA 

    1.
    Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.

  • NGUYỄN BÀN 

    Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.

  • PHẠM PHÚ PHONG 

    Nguyễn Hữu Sơn là nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, là phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Văn học và Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học.

  • LUÂN NGUYỄN

    Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.

  • MAI VĂN HOAN

    Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.