HOÀNG TỐ MAI
"Ta muốn nhìn bông hoa đen nở nụ, trên cánh mỏng là đường diềm trắng gấp khúc uốn lượn. Giá mà ta được nhìn thấy".
Thỉnh thoảng chị tôi viết mấy dòng chữ này vào những mẩu giấy bất kỳ nhất là khi trời đổ mưa phùn rỉ rách. Lúc ấy ngoài trời vắng tanh, ở đâu cũng đầy bùn và mùi ẩm ướt. Chỗ nào cũng đầy mùi ẩm ướt. Trời càng lạnh.
Năm nay đợt mưa kéo dài và đến từ tháng mười. Chị tôi nằm bẹp trên giường cả ngày, đôi lúc ngồi than:
- Đến cả hơi thở cũng bị vẩn đục. Miền khí hậu ải mục sinh ra mọi điều khổ sở. Sao không tạnh hả mưa?
Khó có thể nói khi nào trời tạnh. Ngớt được một lúc rồi mưa lại đổ xuống. Chỉ còn cách giải trí là đọc sách. Trong nhà còn mỗi cuốn "Đồi gió hú" của ai để quên. Chị tôi đọc lại nhiều lần và đọc to lên những đoạn mình thích. Bây giờ tôi vẫn nhớ mang máng, đây là những dòng tả về giấc mơ của Lốchút. Trong giấc ngủ nặng nề anh ta nghe thấy cành linh sam đập vào cửa sổ. Lốchút đập vỡ cửa kính thò tay bẻ nó đi nhưng anh nắm phải bàn tay bé nhỏ lạnh buốt. Một giọng cực kỳ ảo não cất lên nức nở:
"Để cho tôi vào... Để cho tôi vào!"
"Người là ai?"
"Cathơrin Lincơn"... "Tôi đang về nhà. Tôi đã lạc trên đồng hoang".
Và trên cửa sổ lờ mờ một khuôn mặt trẻ thơ. Lốchút kinh hoàng cứa đi cứa lại cổ tay bé nhỏ cho đến khi máu chảy ướt đẫm khăn trải giường.
"Đã hai mươi năm rồi đấy" giọng nói sầu thảm. "Hai mươi năm. Tôi là một linh hồn bơ vơ hai mươi năm ròng".
Chị tôi còn đọc vài đoạn tả đồng hoang tàn tạ. Tôi đồ chừng việc đọc sách có gì không ổn, sau mỗi trang da mặt chị thêm tái nhợt rồi trở mình mệt mỏi. Thế là tôi cất luôn nó vào tủ.
Cuộc sống của chị em tôi không chỉ đơn điệu như vậy. Thỉnh thoảng tôi có gọi vài đứa trẻ con sang cho vui, con của ông thợ gần đấy. Con chị lên bảy, đứa em lên ba. Mỗi khi chúng nó sang không khí ấm áp hẳn. Ở đây xa đô thị ồn ào nên vẻ ngây thơ trong trẻo của hai đứa trẻ dường như nguyên vẹn. Những đôi mắt một mí mở to đầy ngạc nhiên trước bất cứ chuyện gì. Chúng nó có vẻ e dè và kính nể chị tôi hơn. Chị có trò chơi dường như phù phép, có thể hái những bông hoa vẽ trên bức tranh cổ làm bọn trẻ sợ đến mức không dám cầm nữa (cũng dễ hiểu vì vườn nhà tôi trồng loại hoa này). Khi hứng lên chị còn kể chuyện cho tôi nghe, giọng kể thật kỳ lạ, nghe trăm lần không chán. Anđecxen chắc cũng ngạc nhiên khi có người kể chuyện của mình hay như vậy. Một hôm con chị chẳng biết làm sao thốt lên đầy hào hứng:
- Chồng của cô giáo cháu bị đau tim.
Tôi rất buồn cười nhưng chị nhíu mày vờ ngạc nhiên.
- Sao cơ?
- Chồng của cô giáo cháu bị đau tim - con bé thì thầm nhắc lại.
Chị cười ngặt nghẽo rồi nghiêm túc.
- Đây có thể là đầu đề một bài thơ hay.
Tôi cũng nhận thấy là như vậy.
Những buổi tối như vậy dần dần thưa đi, bọn trẻ lớn lên không còn cả tin như trước. Riêng chuyện cổ chẳng bao giờ chán được, chẳng bao giờ.
Gần đây chị yếu đi, trong giấc ngủ thảng thốt bông hoa đen nào đó. Chỉ còn cách đắp thêm chăn và sửa tư thế nằm cho chị.
Buổi sớm, tôi lặng lẽ ra vườn hái một nhành cẩm chướng trắng muốt rồi cắm vào lọ mục tàu. Lúc sau cánh hoa hằn lên vài vệt đen nhỏ như vết xước. Bây giờ bông hoa mang vẻ đẹp kỳ lạ. Tôi nhẹ nhàng đặt nó vào chiếc cốc sành khô ráo và mang đến đầu giường:
- Em đưa đến cho chị điều mơ ước, có điều hơi đảo ngược. Những bông hoa ấy đây.
Chị nhìn rất lâu bông hoa rồi nhẹ nhàng:
- Đây là quà cưới, cô dâu trinh bạch đầy vẻ u sầu và hồi ức đượm màu u ám. Nói xong chị trở mình ngủ tiếp, tới chiều thì mất. Ngoài trời mưa phùn đổ mù mịt, tiếng rơi nhè nhẹ mênh mông.
Buổi tối, ông thợ mộc bê sang cổ quan tài mới sơn, bầy trẻ cầm theo thẻ hương đỏ. Những đôi mắt tò mò sợ hãi.
Hôm đưa đám thì mưa dứt. Bầu trời quang quẻ, mây đã lùi xa. Mặt đất bùn se lại đọng trắng xóa bụi cúc tần xanh ngắt. Đi trong ngày khô ráo, chị có mừng không? Một bà già lại gần tôi an ủi.
- Chị mày đau từ trong bụng mẹ, làm sao trường thọ được! Ráng chịu nghe con.
Tất nhiên là vậy, tôi còn làm gì được hơn.
Tháng mười trôi đi nhanh, tôi quyết định chuyển nhà và phát hiện một chuyện bất ngờ. Khi soạn lại va li quần áo cũ tôi tìm được một quyển sổ tay mỏng. Trong ấy kẹp vài tờ bản thảo, có cái đã in rồi, tác giả là chị tôi hồi mười tám. Có khá nhiều thư của độc giả gửi theo cả ảnh làm quen. Cô gái đầu tiên trông trắng trẻo, đôi mắt nhìn thiểu não.
"Em đã buồn đúng mười năm!". Một dòng chữ thẳng tắp.
"Thế ư?" Nét chữ nghiêng ngả của chị tôi trễ nải. Những ảnh khác đều phảng phất dáng vẻ bệnh hoạn, cô đơn. Cũng có người trông nghiêm túc, bình thường như nhà giáo. Những trang bản thảo chép tay chữ xấu không đọc nổi, lật đến trang cuối tôi đọc được mấy dòng này.
"Ta đã nhìn thấy bông hoa đen nở nụ, cánh nổi mờ đường điểm trắng mọc trên đồng mênh mông. Gió lùa nhẹ và bầu trời màu chì cao xa vời vợi. Cuối cùng thì ta đã nhìn thấy".
Thấy cái gì nhỉ? Tôi không chứng kiến giấc mơ cuối cùng của chị. Tôi còn tìm được một băng nhạc cũ có in hình nhóm "Beatles". Đêm đến tôi bật máy, đấy là những bài ca hay tuyệt gợi hồi ức đầy màu sắc. Màu vàng, màu đỏ, có cả màu gì đó nâu xỉn và hoen ố. Tôi không thấy màu nào hồng cả, không hề thấy.
Khi băng nhạc tắt lịm, có tiếng cười khanh khách vang vọng: "Quá khứ đấy, em thấy sao?". "Đáng kể lắm, em chẳng có gì như vậy"...
Bao giờ tôi cũng mơ ước những điều giản dị, đơn sơ như đôi mắt mở to của bọn nhỏ. Hay người lớn có tâm hồn đồng điệu cho dù là kẻ phạm tội hay con sói già tru gào thảm thiết khi bầy đàn bị tiêu diệt không một con sống sót trở về.
11-1989
H.T.M
(SH số 43/1990)
NGUYỄN BẢN
Nàng là người sau cùng bước lên xe và ngồi ở hàng cuối. Nàng giản dị trong bộ đồ đen, trái với những người đàn bà và cô gái khác trong đoàn. Đôi mắt buồn.
Trời qua cơn mưa đêm, nắng hừng lên. Quang cảnh thị trấn sạch sẽ, óng ả. Tôi đang ngồi làm tin tờ bên cửa sổ. Chợt thấy một cô gái vén quần bước qua vũng nước ngoài đường, cô mặc bộ áo quần màu đen...
THÁI ĐÀO
1.
Họ đã đi rồi. Những người từng cưu mang tôi một thời đã bỏ đi Mỹ theo diện HO rồi. Tôi một mình lang thang trở về lều chợ. Con Khờ đứng ở cổng chợ chờ tôi. Nó đưa tay vẫy vẫy. Bây giờ người thân thích còn lại của tôi la nó, con mắt nó cũng đượm buồn. Nó đưa mắt hướng về đường cái, quốc lộ. Tôi hiểu, nó cũng xót xa vì những người ra đi.
TRẦN DUY PHIÊN
1.
Thầy Năm trở lại miền Tây với ba đồng sự và một nhóm nhỏ giáo dân. Trước ngày lên đường, thầy đã nói với họ bên kia những chóp núi ngợp mắt ấy có một thung lũng mầu mỡ bạt ngàn.
DƯƠNG THÀNH VŨ
Học hết bậc tiểu học trường làng tôi lên phố học tiếp, thi thoảng có phương việc chạp giỗ mới về.
TẠ DUY ANH
Một hôm viên chánh án của Tòa án nọ nhận được lá đơn kiện kỳ lạ chưa từng có. Để độc giả đỡ sốt ruột, người kể xin miễn miêu tả nét mặt viên chánh án khi đọc xong đơn.
CUNG TÍCH BIỀN
1.
Dòng họ Trần Liêu vào định cư ở bờ Bắc sông Thu một thời gian lại gặp chuyện chẳng lành. Mấy năm liền, mùa hè như trong lò thiêu, mùa đông như băng giá, khí hậu khắc nghiệt, khắp nơi bị lụt lội, hạn hán, mưa đá, bão tố; lúa đang đòng đòng sâu bọ ăn hết, kiến vàng làm tổ trong măng tre măng trúc; giếng nước có rắn, dọc bờ sông cá sấu phơi mình trên cát; giữa trưa khô khốc từng bầy voi lang thang đi tìm nước dọc bờ sông trắng. Gió rao truyền những tai ương, và biển bủa sóng báo hiệu của hoang phá điêu tàn.
ĐOÀN LÊ
Cây lá héo rũ. Hơi nóng bốc rung rinh trên một mỏm lá xám. Cả hoang đảo say nắng ngất ngư tới tận khi mặt trời đỏ nẫu sắp rụng xuống gốc biển.
PHẠM THỊ HOÀI
Ngày mười lăm tháng hai năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, tòa án nhân dân thành phố H. mở phiên tòa xử một trường hợp đặc biệt. Bị cáo là một phụ nữ bốn mươi tuổi, độc thân, phạm tội hành nghề mê tín dị đoan có hệ thống, có tổ chức, quy mô lớn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội, nổi tiếng dưới tên gọi "người đoán mộng giỏi nhất thế gian".
NGUYỄN HUY THIỆP
I - GÂY CHUYỆN
Trong số người quen của tôi, tôi rất nể phục nhà nghiên cứu văn học K.. Anh am hiểu các vấn đề lý luận văn học ở ta (lĩnh vực mà thú thực tôi không hiểu gì mấy). Những bài viết của K. có thời được nhiều người ví như "ngọn roi" quất vào "con ngựa sáng tác văn học" giúp nó phi nhanh hơn và không trật đường.
HỮU PHƯƠNG
Nắng gắt. Những đợt gió Lào đầu tiên ồ ồ thổi qua cánh đồng đất cát, cuốn bụi mù mịt, ném cát vào mặt lão Điều. Lão bước vội vã, lúp xúp. Đúng hơn là lão lủi, dọc theo bờ phi lao cao bằng đầu người, cằn cỗi và vàng hoe, mắt dớn dác trông chừng bốn phía.
TÔ NHUẬN VỸ
I.
Tiếng còi như con thuồng luồng đen khổng lồ chạy loạn lên trong không gian với tiếng hụ hụ trần truồng. Mọi vật loạng choạng. Cây lim già, cây đa nhiều cành, cây si rễ già, những hàng cây lớn bé bên hồ rùng mình, rồi như cùng một lúc nghiêng hàng vạn tai lá nghe tiếng hụ. Đã khá lâu rồi, tiếng hụ của còi mới quen lại trong không gian thành phố.
CAO LINH QUÂN
Có một con Dã Tràng sống ngoài bãi biển Nha Trang. Ngày trước, cũng lâu rồi, đang tuổi thiếu niên, ham rong chơi, có lần nó lên tới mặt đường, ngỡ ngàng nhìn Viện Pasteur mới xây cất xong. Cái lâu đài đứng một mình trong nắng như dát vàng đó làm chú ta mê mẩn.
THÁI NGỌC SAN
Mới nhìn qua, gã có vẻ hung dữ, một người làm người khác luôn luôn phải cảnh giác trước khi đến gần. Một vết sẹo chạy từ đỉnh trán bẻ quặt xuống khóe mắt phải như muốn kéo con mắt gã ra khỏi tròng.
Bộ sách kỷ niệm 30 năm Sông Hương, riêng tập tuyển truyện ngắn được chọn xuyên suốt trong 30 năm chứ không phải chỉ 10 năm như tuyển bài ở các chuyên mục khác.