Tương lai của nhạc cung đình Việt Nam

11:13 30/07/2009
YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

Trẻ em xã Hương Thọ tập biểu diễn nhã nhạc đêm - Ảnh: T.Bình - tuoitre.com.vn

Thật ra, trước đây, trong một kế hoạch gọi là Giao lưu Nghệ thuật Truyền thống Á Châu (ATPA) do Quỹ Giao lưu Quốc tế tổ chức, cả hai chúng tôi đều đã nếm một kinh nghiệm đắng cay, đó là vì mặc dù đã nỗ lực để mời ngành nhã nhạc và những nhà âm nhạc, học giả âm nhạc về âm nhạc truyền thống của Việt Nam tham dự kế hoạch này, nhưng giấc mộng đã không thành. Đó cũng là mong ước của ông Koizumi Fumio quá cố (lúc đó là giáo sư Đại học Nghệ thuật Tokyo), một thành viên trong Ban tổ chức ATPA, vì ông muốn biết lịch sử và tình trạng hiện nay của nhã nhạc Việt Nam, một loại hình mà nếu so với nhã nhạc của Nhật Bản và Hàn Quốc, thì hầu như không được biết đến. Chúng tôi cũng lo là trong khoảng nửa sau thập kỷ 1970, lúc mà hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam thảm thương vẫn còn nặng nề, thì nhã nhạc có vượt qua được những khó khăn ấy để tiếp tục phát triển hay không?

Hội nghị được tổ chức tại Hà Nội vào tháng Ba. Ở Hà Nội, chúng tôi đã bàn thảo về những hợp tác nào là nên thực hiện ngay để duy trì nền văn hoá truyền thống gồm của nhiều dân tộc: người Kinh và 53 dân tộc thiểu số khác. Tôi cũng như ông Tokumaru đều đề nghị “Chương trình Đào tạo kỹ thuật ghi lại bằng phương tiện nghe nhìn (AV) các loại nghệ thuật biểu diễn”. Vì công việc của một khoa trưởng, nên ông Tokumaru buộc phải về sớm và vào đêm trước khi về nước, ông ta đã uỷ thác lại cho tôi những điều nên đề nghị ở hội nghị. Mang bản đề nghị viết tay mà chúng tôi cùng thảo với nhau, tôi đi tham gia hội nghị ở Huế. Đó là “Kế hoạch Phục hưng Nhã nhạc Việt Nam”, nhằm mục đích tạo ra sự năng động cho truyền thống của các loại hình múa hát nhạc cung đình như là Nhã nhạc, Đại nhạc, Tiểu nhạc đang may mắn còn tồn tại ở cố đô Huế. Cả hai ông Trần Văn Khê (giáo sư danh dự của Đại học Paris) và ông José Maceda (giáo sư danh dự Đại học Philippines) cũng đều đưa tay tán thành đề nghị này và hứa sẽ hợp tác với chúng tôi. Cả hai đề án đều được UNESCO chấp nhận, nhưng phương án để tiến hành cụ thể và việc huy động tiền bạc thì giao cho phía Nhật Bản. Bởi vì, cùng một lúc không thể bắt đầu cho hai đề án được, nên trước mắt, chúng tôi quyết định đặt tay vào công việc có liên quan với Huế. Cũng may, trong năm đó, cơ quan âm nhạc Arion đã mời Đoàn Ca Múa do bà  La Cẩm Vân dẫn đầu đến tham dự “Đại nhạc hội Mùa hè Tokyo lần thứ 10”, nhờ đó trong thời gian lưu lại Huế, ông Trần Văn Khê đã sắp đặt thời giờ để có thể góp ý cho Đoàn Ca Múa. Sở dĩ làm như thế là vì Đoàn Ca Múa này có khuynh hướng muốn dựng một chương trình đa dạng, được nhiều người hưởng ứng, bao gồm không chỉ ca múa nhạc cung đình, mà còn có cả dân ca và một phần của hát tuồng, nên họ sử dụng một số nhạc cụ như cả đàn bầu vốn không phải là nhạc khí của nhã nhạc vào nhã nhạc, mà như vậy thì về mặt tính chính thống của nhã nhạc chắc chắn nó không thể được chấp nhận. Lẽ dĩ nhiên, việc thay đổi nhạc cổ thành nhạc mới không phải lúc nào cũng nên phê phán, nhưng nếu nhìn vào hiện trạng của Nhã nhạc Việt Nam, thì ông Trần Văn Khê và tôi đều nhất trí cho rằng ít nhất là hiện nay, chúng ta cần phải thận trọng. Ông Khê đã lưu lại dài hơn dự định, để góp ý và hướng dẫn cho Đoàn Ca Múa. Việc Đoàn Ca Múa được sang Nhật đối với các nhà âm nhạc và nghệ sĩ múa có lẽ là một khích lệ lớn. Trong đó, việc người nước ngoài quan tâm nhiều đến nhạc cung đình vốn đã có trước đây, chẳng hạn như nhã nhạc ... sẽ giúp họ nâng cao ý thức bảo tồn nhã nhạc.

Thật ra, khi ở Huế, ngoài Đoàn Ca Múa đã đến Nhật, tôi còn biết một số cựu nhạc sư cung đình có thể trình diễn một cách chính thống hơn thế nữa. Bốn trưởng lão trong họ đã dẫn những người thân như là con cháu của mình đến trình diễn từng phần theo kiểu mở đầu buổi tiệc như trong Lễ khai mạc Hội nghị UNESCO. Hơi một chút tẻ nhạt, nhưng cuộc trình diễn đã cho tôi cảm nhận được sức mạnh truyền thống mãnh liệt ấy, và dường như nó đã thôi thúc tôi hiểu rằng nếu có cơ hội thì họ sẽ trau dồi nhiều hơn để có thể khôi phục lại hình tượng âm nhạc vốn đã có từ lâu đời.

Tôi đã đưa ra một kế hoạch. Đó là lấy trường hợp Hàn Quốc làm điển hình. Không phải trước đây, một thời nhã nhạc Triều Tiên đã mất dần cùng với sự diệt vong của Triều Lý (Triều Tiên), bây giờ lại được bảo tồn như loại quốc nhạc ở Quốc Nhạc Viện Trung ương đó hay sao? Việc kết hợp trình diễn giữa các nhà nhã nhạc Tokyo với Kinh thành (bây giờ gọi là Seoul) và sự đóng góp công lao của nhóm ông Tanabe Hisao, một học giả âm nhạc đã làm cho nhã nhạc Triều Tiên tiếp tục tồn tại và phát triển. Hiện tại, ngay cả ở mặt trình diễn và nghiên cứu, họ cũng đang giữ vai trò quan trọng trong việc giao lưu quốc tế. Tôi có cảm tưởng rằng nhã nhạc Việt Nam cũng có chung một số phận là mai kia sẽ tiến lên trên cùng một con đường như vậy.

Sau khi về nước, tôi đã nói lại ý nghĩ của tôi cho ông Tokumaru, và cố gắng bắt tay thực hiện ngay “Kế hoạch Khôi phục Nhã nhạc Việt Nam”. Cũng may đúng lúc đó, tôi nhận được số tiền tài trợ nghiên cứu của quỹ Toyota, một tổ chức đang bắt đầu chú trọng đến Việt Nam, nên tôi quyết định lập “Hội nghiên cứu Nhã nhạc Việt Nam” (đại diện là ông Tokumaru Yosihiko). Công việc đầu tiên là thu thập những tư liệu có tính học thuật đang còn lại hiện nay và rồi là các sử liệu đang bị phân tán, cuối cùng là quyết định bắt tay vào việc nghiên cứu cơ sở gọi là thử khảo chứng về mặt lịch sử. Chúng tôi cũng đã uỷ thác ông Trần Văn Khê, một nhà nghiên cứu đàn anh làm thành viên, và Hội bắt đầu có những hoạt động như đọc luận văn tốt nghiệp của ông ta...

Tháng 4 năm 1995, Hội nghiên cứu đã tổ chức đi điều tra thực địa. Một đội ngũ gồm những học giả chuyên môn về Việt Nam và một số sinh viên cao học trẻ đã mang lại một thành quả lớn. Đó là ông Shiraishi Masaya (giáo sư Đại học Thành phố Yokohama, chuyên về Lý thuyết quan hệ quốc tế), người hiểu sâu về cơ cấu văn hoá Việt Nam giữ vai trò thông tin liên lạc, ông Tomita Kenji (giáo sư Đại học Ngoại ngữ Osaka, chuyên về Tiếng Việt), người cũng nổi tiếng là am hiểu món ăn Việt Nam, góp ý trong cương vị của người điều đình, ông Momoki Shiro (phó giáo sư Đại học Osaka, chuyên về Lịch sử Việt Nam) đóng vai thông dịch cho Đoàn, một người luôn luôn làm việc miệt mài, anh Zhao Wei Ping (người Trung Quốc, đang học khoá trình tiến sĩ ở Đại học Osaka về Âm nhạc học), người đã có những đóng góp để làm cho người Việt Nam xác nhận lại rằng Nhã nhạc là tài sản chung của các nước Đông Nam Á, chị Kim Young Bong (người Hàn Quốc, cũng đang học khoá trình tiến sĩ ở Đại học Osaka về Âm nhạc học) giúp chúng tôi mở rộng tầm nhìn, cô Nakamura Minako (đang học khoá trình tiến sĩ của Đại học Nữ Ochanomizu về Vũ học) thường mặc áo dài và hoạt động không quản khó nhọc, ông Takahashi Mitsunori (Cty Mitsu Production), con người năng nổ đã chịu nhận lời nhờ vả đặc biệt của tôi một cách dễ dàng để đảm nhận việc ghi hình bằng kỹ thuật nhà nghề, ông Yamakawa Izumi (Cty Soju) như một nhà đào tạo nghệ sĩ đã đặc biệt tham gia để quan sát, bà Trần Thị Thực (điều phối viên ngoại ngạch của Bộ Văn hoá Thông tin), người đã sắp đặt kỹ lưỡng chương trình làm việc cho Đoàn mà ban đầu chỉ là người thông dịch ở nội địa, nhưng cuối cùng được chính thức mời làm thành viên của Dự án và bà đã hứa từ đây về sau cũng sẽ hợp tác với chúng tôi. Sau hết là ông Trần Văn Khê, người mà sau khi đến nhận giải thưởng Âm nhạc Izumi Fumio đã bằng đôi chân đó đi về Việt Nam để gặp chúng tôi và ông Tokumaru, người tổng chỉ huy nhưng cũng là một người sành ăn uống..., và người nào cũng để lại trong tôi những kỷ niệm khó quên.

Ở Huế, chúng tôi thật sung sướng vì đã xác nhận được rằng bằng hình thức này hay hình thức nọ, cũng còn một số người chơi nhã nhạc. Tuy nhiên, nếu trừ bốn trưởng lão, thì tôi có cảm tưởng rằng mức độ tài nghệ và tầm vóc của những nhạc công còn lại không làm cho người nghe thoả mãn trọn vẹn được. Trong thời gian ở Huế, chúng tôi nhận được một thông tin không hề chờ đợi, đó là Trung tâm Văn hoá ASEAN của Quỹ Giao lưu Quốc tế sẽ bị ngưng hoạt động để Trung tâm Á Châu bắt đầu hoạt động vào mùa thu. Chúng tôi đã liên lạc chặt chẽ với Đại sứ quán Nhật Bản ở Hà Nội (Đại sứ lúc ấy là ông Ogura Kazuo và ông Tham tán Anabuki, người mà đến nay vẫn giữ vai trò đại diện thường trú cho chúng tôi) để bắt đầu hoạch định cách triển khai cho một dự án mới. Đó là vận động để thành lập Khoa Nhã nhạc ở Đại học Nghệ thuật Huế. Với tâm niệm muốn tạo ra một môi trường giáo dục gần với môi trường hiện nay của Seoul, chúng tôi nghĩ trước hết nên thúc đẩy nhanh việc đào tạo những nhà nhã nhạc trẻ ở bậc đại học. Và suy nghĩ này đã trở thành vấn đề cấp bách vì chúng tôi đã nhận thấy sự hoạt động còn mạnh mẽ của bốn trưởng lão.

Tức khắc sau khi trở lại Nhật Bản, chúng tôi đã yêu cầu Trung tâm Á Châu giúp ý kiến, và bắt đầu vận động để cho Đại học Nghệ thuật Huế được phép nộp đơn ở quỹ hỗ trợ vừa mới mở để xin tài trợ cho Dự án. Mặc dù phải qua nhiều chặng đường cam go, nhưng cuối cùng vào tháng 11 chúng tôi cũng đã nhận được giấy phép tài trợ. Tuy nhiên, về phía Việt Nam để nhận được giấy phép mở học khoa mới này của Bộ Giáo dục thì cần phải chờ đến tháng 1 năm nay. Ngày 14 tháng 3 năm nay, chúng tôi nghe tin là để mở được học khoa mới thì phải chờ đến tháng 9 khi niên học mới bắt đầu. Và để đừng phí số tiền tài trợ cho năm đầu tiên vừa khổ công nhận được, tôi đã đề nghị là trước khi Học khoa được chính thức khai giảng, từ tháng 4 chúng tôi nên bắt đầu hoạt động để chuẩn bị. Sự điều tra hiện địa của tài khoá năm thứ hai do Quỹ Toyota tài trợ vào tháng 4 đã có nhiều đóng góp để sáng kiến của tôi biến thành hiện thực. Ngoài các thành viên năm ngoái, chúng tôi còn có thêm sự trợ lực của các thành viên mới như bà Oshio Satomi (Trợ lý Đại học Nữ Ochanomizu, chuyên về Âm nhạc học) và ông Yamashita (Cty Mitsu Production), vì vậy, chúng tôi đã có thể thực hiện Lễ khai giảng tạm thời và Hội thảo học thuật như là bước đầu trước khi khai giảng học khoá mới. Trong Lễ khai giảng này, các sinh viên chắc chắn sẽ theo học chuyên ngành nhã nhạc từ mùa thu năm nay và nhóm trưởng lão đã trình diễn âm nhạc cho chúng tôi nghe.

Như thế đó, chúng ta đã nhìn thấy đang có biến chuyển lớn trong nhã nhạc Việt Nam.

Nhưng tôi thì không thoả mãn với chỉ kết quả như thế. Bởi vì, thực tế ở bậc thấp hơn một chút so với bậc đại học, thì giáo dục nhã nhạc mới được thực hiện ở một chừng mực nào đó thôi. Nếu nói theo trình độ Nhật Bản, thì ở Trường Nghệ thuật Văn hoá Huế tương đương với bậc cấp 3 của Nhật, việc dạy dỗ nhã nhạc và đại nhạc cũng chỉ mới được thực hiện trong khuôn khổ của việc giáo dục âm nhạc truyền thống. Vào tháng Tư năm ngoái, chúng tôi đã có dịp thưởng thức buổi trình diễn trẻ trung của những học sinh sắp trở thành sinh viên của Khoa Nhã nhạc sẽ mở trong tương lai. Và vào tháng Ba năm nay, chúng tôi lại có cơ hội tham quan quang cảnh đang học tập âm nhạc truyền thống dạy theo kiểu từng người và từng loại nhạc khí kia. Nhìn dáng bộ nhiệt tình khi sử dụng các loại nhạc khí của họ hoà hợp với nhịp đập của trái tim dân tộc đang tiềm ẩn trong bàn tay điêu luyện và lời xướng ca của các thầy chỉ đạo, thì chúng tôi có ngay một ấn tượng là nơi đây vẫn còn những người trẻ sẵn sàng đứng ra gánh vác tương lai của ngành nhạc cung đình.

Một số thầy, những nhà âm nhạc tương lai đang học cấp 3 và ông Nguyễn Xuân Hoa (Phó giám đốc Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế), người luôn luôn góp ý và chăm lo cho hoạt động đào tạo được mời để tham dự Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 4 ở Hyogo, trong đề tài “Những người trẻ chung vai gánh vác Truyền thống Âm nhạc Á Châu --- Việt Nam và Nhật Bản ---” do Nhà Nghệ thuật Hiện đại Hyogo tổ chức. Và nhờ có sự nỗ lực của ông Shiraishi mà có thêm hai người Việt Nam nữa tham gia diễn đàn lần này. Việc ông Hà Sâm (nhạc sĩ và là Hiệu phó Đại học Nghệ thuật Huế) và ông Tô Ngọc Thanh (Giám đốc Trung tâm Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia) sang Nhật để  “so sánh nhã nhạc giữa Việt Nam và Nhật Bản”, một đề tài nghiên cứu do Quỹ Sumitomo tài trợ cũng là một sự hợp tác đối với diễn đàn này. Chúng ta chắc chắn sẽ có những buổi trình diễn thú vị ở Diễn đàn tại địa điểm của Rạp Piccolo vào ngày 2 tháng 11 hay ở Kyoto, Osaka và Nishi - Suma. Trong diễn đàn lần này, cũng còn có sự hợp tác của những tổ chức như Hội nghiên cứu Nhã nhạc Việt Nam, Viện nghiên cứu Cao đẳng Quốc tế... Tôi tin tưởng qua việc giao lưu với thanh thiếu niên Nhật Bản này, chúng ta có thể cùng nhau tìm hiểu phần nào những “mẹo nghề” của âm nhạc truyền thống được truyền đạt giữa các thế hệ và cũng để chia nhau niềm hy vọng về một tương lai sáng lạn.

Y.O
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang