Minh họa: Ngô Lan Hương
Xin đừng bảo tôi vô tình, đừng trách tôi quên làng, quên xóm. Năm nào cũng vào ngày này, tôi thắp hương xin thầy, u tha lỗi. Đường sá xa xôi hơn nghìn cây số, tiều tàu xe là cả vấn đề nan giải đối với đồng lương viên chức của vợ chồng tôi. Rồi thì vợ ốm nằm viện, tôi ốm nằm viện, con thi đại học, bao nhiêu việc phải lo.
Bác Khương ngồi cùng mâm với tôi và hai bác thợ cả. Chén rượu Ghế rót mời tôi còn đầy nguyên thế mà ở mâm, chai thứ hai đã gần cạn. Ghế gắp thịt gà, thịt lợn mời bác Khương và tôi. - Kính cụ! cụ trẻ dùng đũa đi chứ, còn nguyên thế kia. Ô, kìa! cụ trẻ không uống được rượu à? Thôi để cháu giúp. Ghế cởi trần trùng trục, mồ hôi nổi từng hạt trên lưng, cọng rau húng dài quá lòng thòng bên mép, luôn mồm nói, luôn tay tiếp thức ăn cho tôi, luôn tay rót rượu vào chén của mình. Tôi bắt chuyện với Ghế cho vui và để tránh cho anh ta khỏi tiếp thức ăn vào bát của tôi. - Anh Ghế này, anh còn nhớ hôm thanh niên tập trung ngoài sân đình trước ngày nhập ngũ không. Có phải anh ghẹo cô Thắm để cô ấy đẩy ngã xuống ao đình? Rõ ràng mọi người đều thấy anh ngồi bên cầu ao với cô ấy, thế mà loáng cái đã không thấy anh đâu. Hỏi cô Thắm, cô ấy nói không biết. Chắc là xấu hổ cô ấy không dám nói. Mọi người cuống cuồng đi tìm. ai dè ông mãnh lóp ngóp bò từ dưới ao lên. Thế là thế nào. Lũ trẻ lúc này đã ăn xong, mồm mép, loen ngoen, ngồi xung quanh mâm của tôi, ngửa mặt lên hóng chuyện. Một phát hiện mới của lũ trẻ để có dịp trêu chọc Ghế. - Cười cái gì, chúng mày tưởng tao thuộc loại xỏ lá hả! Ma rút đấy cụ ạ. Chúng mày biết gì mà cười, đồ hậu sinh. Cái ao đình ngày xưa nổi tiếng nhiều ma. Ma còn trú ở trên cây đa, đố ai dám trèo lên. Ấy thế mà bây giờ chúng nó có sợ đâu, làm gì còn cây đa bến nước ao đình, ma chạy hết rồi, phá hết rồi, làm gì còn cũ xưa nữa để ông trẻ nghiên cứu, để ông trẻ đi gặp ma xem thế nào. Rùa đá, ngựa đá không dùng vào việc gì được may mà còn. Ngay chỗ cây đa bây giờ là xưởng bia rồi. Cháu thèm vào uống, chua loét, không bằng rượu ngang quê mình. Sắp mở con đường liên xã chạy ngang qua đình rồi đấy, nếu không quản lý chặt thì đình làng rồi cũng trở thành quán bia ôm. Gớm! hôm nọ ra Hà Nội, đi qua mấy phố, nghe tiếng hát trong quán cà phê mà thấy hãi, ẽo à ẽo ợt. Mấy đứa con gái thì xanh xanh đỏ đỏ, làm gì còn có “ Em xinh là xinh như cây lúa- Tình- tình- tình- chát”. Tao đố đứa nào biết hát xoan đấy. Này nhá: “ Đố ai, đố ai hát được mấy lời, mấy lời cho vui”. Ngày mai xây đình là chủ trương đúng của làng. Họ nhà mình đóng góp to nhất đấy. Thế chiều nay, họ nhà mình sắp lễ thế nào rồi cụ trưởng? Phải làm to nhất đấy. - Hương hoa, oản quả là được rồi phải không bác Khương, có gì đâu mà phải to với lớn. Số tiền dự định làm to, đem góp thêm vào sửa chữa đình có hơn không. - Thế sao được cụ trẻ. Cuộc tranh cãi về lễ đình nổ ra. Bát hạ xuống, đũa vung lên, ai cũng muốn giành lời về mình. Nếu không có cuộc tranh cãi này, không có Ghế thì có lẽ mâm cỗ chỉ có tiếng thì thào nói chuyện phát buồn ngủ. Mọi người đang hăng say tranh cãi thì có tiếng gào khóc thảm thiết ngoài cổng: - Ơi chị ơi! Sao mà vô phúc thế, sao chị lại rơi vào cái nhà mất gốc ấy, hờ... hờ, chị ơi. Sao chị lại phù hộ cho chúng, để chúng ăn sung mặc sướng, cho chúng nó được học hành nên người để rồi chị phải tủi hổ. Mọi người vẫn bình thản ăn uống. Tôi ngạc nhiên không hiểu chuyện gì. - Kệ xác! cho lão ấy lu loa. Cụ không phải bận tâm. Mấy năm nay rồi, cứ đến ngày giỗ kỵ là lão ấy đến kêu khóc. Chẳng qua là thấy nhà mình ăn nên làm ra lão ấy ghen tỵ. Chửi chán thì thôi chứ được gì. Cháu đây này, một ngày có đến hàng triệu cái mồm chửi cháu, cả mụ vợ cháu, ngày nào cũng chửi, nó sai thằng cu: “ Lấy ghế cho tao ngồi!” Ấy nó ngồi cả lên mặt cháu suốt ngày. Tôi không thể cười được trước câu đùa của Ghế, buông đũa đứng lên đi ra cổng. Ông Tánh, em út của u tôi, da dẻ nhăn nhúm, đôi mắt bị lông quặm từ ngày xưa nay chỉ còn lại màu trắng đục, đang ngồi dựa cổng nhà tôi kêu gào. - Sao thế ông. Hôm nay là ngày giỗ u cháu sao ông không sang? - Tao không thèm vào cái nhà mất gốc! Khốn nạn chưa chị ơi, hôm nay chúng nó lại tử tế với em thế. Tôi đỡ ông đứng dậy mời vào nhà. Ông Tánh ẩy tôi ra rồi quay người lại chống gậy dò dẫm đi về để lại cho tôi những lời rỉa ráy rục tỉu. Tôi hỏi chuyện anh tôi thì được biết, mâu thuẫn giữa hai gia đình bắt đầu từ sau ngày sang cát cho u tôi. Tục lệ quê tôi đến nay còn lạc hậu quá. Chỉ có con trai mới được phép tắm rửa xương cốt cho người chết. Thế mà ngày hôm ấy, anh tôi bị ốm không làm được, còn tôi không quen việc này. Bác Khương giao việc này cho Nhận là con nuôi của u tôi từ ngày còn bé. Gia đình bên ngoại tôi không đồng ý. Từ trước tới nay, ở làng này nếu người chết không có con trai thì anh em trai sẽ làm việc này. Ông Tánh khi ấy mắt chưa mờ, là người gay gắt phản đối ý kiến của bác Khương, ông cho rằng nếu ngày mai anh em không làm việc này thì ông sẽ là người thực hiện tiếp sau. Khi nắp quan tài bật lên, ông Tánh định nhảy xuống thì bác Khương cản lại và nói rõ quyết định của bên họ nội chúng tôi. Khi ấy tôi không có ý kiến gì. Ăn uống xong đã hai giờ chiều, người tôi nhược ra vì nóng bức và mệt mỏi, trong lòng áy náy về chuyện bất hòa trong gia đình. Đành phải gác lại việc hỏi thăm ông Tánh, tôi chuẩn bị để cùng mọi người ra đình. Những câu chuyện đùa vui của Ghế với tôi lúc này quá nhạt nhẽo. Phương chuẩn bị máy ảnh, nó đã nhờ được bọn trẻ dẫn đường tới các chuôm cuối cùng còn lại trên cánh đồng làng, đó là cái chuôm có hòn đá huyền thoại của tôi. Phương hẹn mọi người sẽ tới lễ đình sau. Nó vội vàng muốn được chụp ảnh cái chuôm ấy cũng phải, có tin con đường liên xã sẽ đi qua nơi ấy, một vài người đang chuẩn bị đổ đất lấp chuôm làm nhà. Trời đổi gió nam mang theo làn hơi nước mát mẻ. Đường chân trời đang đổi sang màu xám chì báo hiệu cơn dông hoặc mưa sắp tới. Mâm lễ được hai đứa cháu gái bưng trịnh trọng đi trước, chúng tôi đi sau vui vẻ chuyện trò. Trước mắt tôi là mái đình “Quá cổ Kính”, mái đao có chỗ đã bị rạn nứt tường tróc lở gần hết để trơ những đường gạch nham nhở, gạch lát sân đình chẳng còn viên nào. Không gian thoáng đãng của đình nay đang bị đè nén bởi xưởng bia, bởi những ngôi nhà mái bằng vôi ve xanh đỏ mọc lên trên vườn cây “ các cụ” khi xưa. - Khác xưa nhiều quá! Tôi thốt lên một mình. - Cụ xem ngựa đá kia! May mà còn. Tôi nhìn về phía ngựa đá thiêng liêng đầy bí ẩn đối với lũ trẻ con chúng tôi. Khi ấy ngựa đá đứng khoan thai cạnh gốc nhã cổ thụ. Nay gốc nhãn chẳng còn. Tội nghiệp cho ngựa đá phải dầm sương dãi nắng, rêu phong đã mọc đầy người, không ai ngó ngàng tới. Bác Khương đặt mâm lễ lên bàn rồi lùi xuống thành kính chắp tay vái. Chúng tôi đứng sau vái theo. Mâm lễ của chúng tôi quá nhỏ nhoi, lạc lõng so với những mâm xôi gà, thủ lợn xếp chung quanh. - Đúng là đồ mất gốc, chỉ biết ăn cho sướng mồm! Có ai đó nói phía sau. Tôi biết họ ám chỉ ai. Lễ xong, chúng tôi ra ngồi uống nước, nói chuyện với mọi người. Đám bạn cũ thông cảm cho hoàn cảnh của tôi khiến tôi không về thăm quê được. Gặp lại mấy người cùng nhập ngũ khi xưa thật vui vẻ. Chúng tôi về đủ cả, không ai nằm lại chiến trường. Tôi thấy ông Tánh lọc cọc chống gậy đi vào vẻ mặt không vui: - Họ nhà anh Khương đâu? Nay có cả thằng út về đây, họ nhà anh đông đủ cả. Hôm nay có cả làng, tôi đề nghị các anh chuyển hòn đá sau đình đi ngay, nếu không tôi cho thanh niên đập nát ra đừng có trách. Đây là nơi thờ cúng của cả làng, đâu có phải riêng của gia đình anh. Mọi người kéo nhau ra sau đình, nơi đặt hòn đá hình rùa. - Ông đe lần này là lần thứ mấy rồi đấy. Có giỏi đi mà đập! Ghế đi phía sau, mặt vênh lên, giọng nói kéo dài ra vẻ ngạo mạn và thách thức. - Đừng có mà trách tôi! Ông Tánh trợn mắt lên giận dữ. Đôi mắt không thần khí. - Chú ạ! Không phải gia đình cháu tự ý chuyển hòn đá về đây, chính chú đã đề nghị việc này, mọi người đều cho đó là vật thiêng, là lịch sử của làng. Anh em cháu có điều gì không phải xin chú dạy bảo, làm điều này e rằng gây điều tiếng trong làng xóm. Tôi nhẹ nhàng nói và gọi ông bằng chú như ngày xưa còn bé. - Không chú cháu gì với nhà anh. Chúng mày, đập ra cho tau! Hai thanh niên chắc là cháu của chú tôi vung hai chiếc búa tạ đã chuẩn bị sẵn, quai mạnh xuống hòn đá. Những tiếng cạch khô ròn đều đều dội lên sau mỗi lần vung tay của hai thanh niên. Những vệt lửa sáng xanh tóe lên dưới đầu búa. Hòn đá vẫn trơ trơ vẫn tròn trĩnh không một vệt xước. - Hơ... hơ... hơ...! Quai mạnh vào, tối về ăn cỗ cho ngon. Ghế cười sảng khoái, tin tưởng vào sự thách thức của mình. Bầu trời đã kín một màu xám chì, nặng nề. Gió thổi mạnh hơn, cây cối ngả nghiêng. Một tia chớp lóe lên như một lưỡi gươm vạch ngang bầu trời. Sau đó là tiếng sấm đanh, rền vang nổ ra dữ dội ngay trên đầu mọi người. Những hạt mưa to, nặng bắt đầu quất lẹt đẹt xuống sân đình. Mọi người ùa chạy vào trong đình trú mưa. Ông Tánh cũng khua gậy chập chững chạy theo. Không ai dẫn đường cho ông. Chỉ còn mình tôi buồn rầu đứng nhìn những vết xám trên tảng đá, tôi không muốn chuyến về quê của mình lại như thế này. - Kìa bố! Sao bố không chạy mưa, ướt hết cả rồi! Tôi quay lại thấy Phương, người bê đất bùn đất nhưng ánh mắt rất vui. - Sao lại lấm lem đất thế này?. - Không sao đâu bố ạ. Con chụp được cái chuôm đấy rồi. Người ta bắt đầu đổ đất lấp, chậm chút nữa thì chẳng còn gì để chụp. Bố cầm máy ảnh cho con. Phương đưa máy ảnh cho tôi rồi chạy ra ngoài mưa. Tôi vào trong đình. Mưa bắt đầu ào ạt dội xuống. Không khí mát mẻ dễ chịu. Không gian trong đình càng thêm mờ mờ tối bởi trời mưa và người chật kín bên trong. Tôi đứng tựa lưng vào cửa nhìn vào. Ánh sơn son thiếp vàng trên những pho tượng lấp lóe tỏa sáng huyền ảo. Ánh mắt hiền từ bao dung, miệng mỉm cười thân thiện của những pho tượng đang nhìn xuống mọi người. Không còn cuộc cãi vã nào nữa, mọi người đều thành kính trước những pho tượng. Bây giờ, tôi mới hiểu tại sao những tượng Phật lại sơn son thếp vàng. Ngọn gió Bóng áo trắng của Phương vẫn nhập nhòe trên lưng ngựa đá. Tháng 7- 1999 N.Q.H (131/01-2000)
|
VĂN ANMặt trời đã khuất sau rặng núi xa xa, bầu trời chỉ còn sót lại những vệt sáng yếu ớt như những chiếc nan quạt hắt lên từ phía chân trời.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ anh hay, rất nổi tiếng, nhiều người ái mộ.Năm 1975, anh cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trụ lại thành phố làm đại diện một tờ báo, chốt trực cơ quan. Ở rừng lâu, nằm lán, ngủ võng cũng quen, nay về phố thị, căn hộ hai ba phòng, tự nhiên thấy trống trải, trằn trọc. Hoà bình rồi, cần ổn định cuộc sống, việc đầu tiên là đón mẹ con nó vào.
ĐỖ KIM CUÔNGNấn ná mãi tôi mới quyết định đi thăm Hiền. Quãng đường hơn trăm cây số, vượt qua đèo Cả không có gì đáng ngại. Chỉ hơn ba giờ đồng hồ ngồi xe đò và hơn một giờ nữa trên chếc xe ngựa của ông Sáu cụt chân là tôi đã có thể tới làng Vĩnh Hiệp Nam, về ghềnh Đá Đỏ. Nhà cô giáo Hiền ở đó.
LÊ MAICơn mưa chiều sầm sập kéo tới, mưa đổ bì bộp xuống mái nhà; hạt mưa nặng đến nỗi Hoàng tưởng như những tấm tôn phải oằn rướn lên chống đỡ; nước từ các máng xối tuôn ra ào ạt kéo theo hàng đụn lá khô, cỏ rác tràn đầy cống ngoài đường. Mới có năm giờ chiều mà như tám giờ tối.
HƯỚNG DƯƠNGTruyện ngắnMùa đông năm ấy tôi phải đi công tác tại một thành phố nhỏ ven biển. Khách sạn tôi trú chân nằm trên một ngọn đồi, nó không sang trọng, bề thế như nhiều khách sạn khác. Nhưng bù lại, nó hướng mặt về phía đại dương. Địa điểm này thật sự lý tưởng cho khách du lịch vào mùa hè, còn mùa đông thì chỉ có những người đặc biệt hay những công việc đặc biệt người ta mới tìm đến đây nghỉ lại. Một người bạn thân đã cho tôi địa chỉ của nó. Tôi khá hài lòng nếu như bạn hàng của tôi không bắt tôi chờ bão tan rồi mới đáp máy bay đến ký hợp đồng.
THANH QUẾ(Chùm truyện mini)
TRẦN HẠ THÁP(thân tặng Ng.X.Hoàng)
TRẦN HẠ THÁP (tiếp theo)
VÕ THỊ ÁNH HỒNGTôi vừa chạy vừa gọi chị trong tiếng sóng rì rào và tiếng lao xao của dãy phi lao. Như không nghe thấy tiếng tôi, chị vẫn thẫn thờ nhìn về xa xăm, chờ đợi...
PHẠM NGỌC TÚYĐó là một cặp vợ chồng trông rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chàng cao lớn, mặt vuông. Nàng mảnh khảnh, xinh xắn. Khi lấy nhau, họ ở nhà tập thể của cơ quan. Sau khi cơ quan dời đi chỗ khác, người được phân đất, kẻ được chia nhà, lần lượt dọn đi. Chỉ trừ chàng. Chàng vì cô mà ở lại.
PHẠM XUÂN PHỤNGXưa có một người nông dân chất phác cần cù, nhà ở gần bìa rừng, làm lụng đầu tắt mặt tối bao năm mới dựng được ngôi nhà tranh ba gian hai chái. Trước nhà có cái sân rộng dùng để phơi lạc, loại nông sản chuyên canh của dân trong vùng. Hai vợ chồng có mỗi mụn con trai nên thường chăm bẵm, những mong sau này có được dâu hiền, phúc nhà đến độ, may chăng cháu chắt đầy nhà là mãn nguyện.
NGUYỄN NGỌC LỢICây mai dáng trực đặt nơi khoảng sân lát gạch đỏ của toà nhà ấy đã làm xôn xao cả phố. Gốc cây mai to gộc, u bạnh của nó bám đầy địa y mốc xanh mốc trắng.
TRẦN THÙY MAIThấp thoáng trong văn Trần Thùy Mai là sự phô phang hình hài của linh tự. Những linh tự tủi buồn bởi hết thảy chúng đều được hoài thai từ “độ chênh” của những mối tình khó lần ra hồi kết. Điều đó khiến mỗi truyện ngắn của Mai như là một miếng hồng trần nhỏ nhắn - chị lặng lẽ vấy vá bằng sợi tầm ma trước mỗi rạng đông...
QUẾ HƯƠNGTôi băng qua đường để lên cầu Trường Tiền. Thằng Tí kéo tay tôi lại: “Cậu qua đường mần chi, xe cán chừ!”. Tôi cứ qua. Đám trẻ con đang chơi ở công viên trước mặt ném đá vào tôi. Tôi chạy lên cầu. Đám trẻ réo: “Ông điên! Ông điên!”. Tí chạy theo, vừa thở, vừa nắm tay tôi: “Ai bảo cậu qua bên ni, dắt cậu thiệt mệt!”.
NGUYỄN NGUYÊN PHƯỚC Vào một buổi tối mùa thu, Đinh Hoài Viễn, một nhà văn trẻ tuổi, một người hoàn toàn vô danh trong văn giới, trong khi bóc phong thư mới nhận được vào buổi sáng ngày hôm đó, đã phát hiện ra ở mặt sau cái phong bì rỗng ấy một văn bản kỳ lạ trong hình thức của một truyện ngắn không đề tên tác giả.
ĐỖ KIM CUÔNGQuán cà phê cây sứ của vợ chồng Tư Hiền nằm ngay mặt tiền con đường nhỏ dẫn ra biển. Quán không trang hoàng đèn xanh đèn đỏ, không quầy két, không người chạy bàn, chỉ dăm ba bộ bàn ghế nhựa rẻ tiền.
HƯƠNG LANNàng sống trong một ngôi nhà xưa, được xây cất từ đời ông cố của nàng, tính ngót nghét nó cũng hơn trăm tuổi. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn mênh mông.
LƯƠNG VĂN CHILGT: Nhà tù, nơi chưa mảy may cải hóa được người đàn ông từng trác táng trên nền đạo đức xã hội, nhưng... Truyện được thắt nút khi Thuần “lột trần” vẻ đẹp phồn sinh xuân thì để minh chứng cho những ham muốn nguyên khai của con người là có giới hạn. Không khiên cưỡng ở nhiều chi tiết nhạy cảm, không tục trần trên từng đường cong mỹ diệu... Kịch độc đã thật sự “tiêm” những rung cảm lạ lùng vào miền hoang mê của lương tri đồng loại.
GIAO CHỈ Bão tố thường nổi dậy từ biển khơi hùng vĩ và kể cả. Những hút gió sấn sổ táp xuống mặt đất bao la quăng dội, tàn sát điên cuồng cho hả những cơn giận dồn góp lâu dài.
NGUYỄN ĐẶNG MỪNG Những người thắt đáy lưng ongVừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con (Tục ngữ)