Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiên

14:50 27/07/2015

NGUYỄN THỊ TỊNH THY

1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái mà tiêu biểu là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người (KVN), Mối và người (MVN), Nhện và người (NVN).

Trang đầu của truyện ngắn "Kiến và Người" - Ảnh: internet

Đây là một hiện tượng khá đặc biệt, thể hiện sự nhạy cảm của nhà văn đối với một vấn nạn mang tính toàn cầu - vấn nạn môi trường; góp phần khỏa lấp mảng trống của dòng văn học này trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế.

2. Trong văn học quá khứ, dù nhà văn có trân trọng, có yêu thiên nhiên thiết tha đến mấy, miêu tả thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng và hùng vĩ đến mấy cũng chỉ để tỏ cái tình, cái tài, cái trí, cái chí của người cầm bút. Thiên nhiên chỉ là khách thể của văn chương, là phương tiện, công cụ, thủ pháp, ký hiệu, đối tượng… để trữ tình, thể hiện, ẩn dụ, ám chỉ, tượng trưng cho thế giới nội tâm và đặt trưng nhân cách của con người. Các nhà văn sinh thái phản đối sự đối xử thuần lợi ích, thuần công cụ đối với tự nhiên như thế. Đặc trưng hạt nhân của văn học sinh thái là kiên quyết bài trừ những thái độ công cụ hóa và phương pháp hóa đối với tự nhiên. Từ góc nhìn sinh thái, bài viết sẽ làm rõ tư tưởng sinh thái của nhà văn Trần Duy Phiên trong KVN, MVN, NVN ở những bình diện sau: giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm”, phê phán sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo nhân loại về nguy cơ sinh thái, lí giải mạch ngầm văn bản và nghệ thuật tự sự.

2.1. Giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm”.

Sau các phong trào Phục hưng, Khai sáng và đặc biệt là với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thế kỉ XX, nhân loại tự cho mình có đặc quyền chinh phục và tước đoạt tự nhiên. Lí luận hiện đại cho rằng, toàn bộ thế giới được kiến tạo xung quanh một hạt nhân, một trung tâm duy nhất, ấy là chủ thể - con người. Người ta cho rằng “con người là trung tâm của thế giới”, “con người là tinh hoa của muôn loài”, và coi việc chinh phục tự nhiên là một phương thức khẳng định sức mạnh và địa vị của con người trong vũ trụ. Các nhân vật chính trong KVN, MVN, NVN cũng vậy.

Mở đầu KVN, người kể chuyện khẳng định: “Quá nửa đời, bố cháu không chịu thua ai”. Ông quyết định bán nhà ở thị xã, dắt díu vợ con lên cao nguyên đốn cây, vỡ đất. Chỉ vụ mùa đầu tiên, thành quả lao động đã có, “bố cháu vui, say khướt. Bố huênh hoang kỳ công tạo dựng cơ ngơi”.

Cậu Bảy trong MVN cũng khiến những thanh niên trí thức đến tham quan trang trại của cậu thán phục. Tốt nghiệp kĩ sư năm hai ba tuổi, đẹp trai, lịch lãm, đàn giỏi hát hay. Bị vợ bỏ, cậu lên cao nguyên lập trang trại nuôi gà. Trại gà của cậu Bảy có đến hai mươi ngàn con. Quy trình khép kín, chế biến thức ăn, chăm sóc, chủng ngừa, nhặt trứng, giao nhận hàng hóa... chỉ cần hai người là cậu Bảy và già Nu. Một chủ, một tớ. Giờ đâu, việc đó. Người nào, việc nấy. “Quan trọng thứ nhất: ăn uống. Thứ hai: nghỉ ngơi. Thứ ba: khai thác thiên nhiên”. Khai thác như thế nào? Tương kế tựu kế. Mối là loài côn trùng “đặc sản” của cao nguyên. Sau mỗi đêm mưa, chúng lao vào bóng đèn như những con thiêu thân. Đèn được thắp sáng khắp trang trại, hai mươi ngàn con gà đều mập lên nhờ ăn mối mỗi đêm. Mùa mưa ở cao nguyên kéo dài cả nửa năm. Vậy là hai mươi ngàn con gà có một lượng thức ăn bổ béo cả nửa năm mà cậu Bảy khỏi cần tốn tiền của và công sức để lo cho chúng. “Rừng nuôi mối. Mối nuôi gà. Gà nuôi cậu”. Mọi việc đâu ra đó, thu nhập ổn định, lối sống phong lưu. Tất cả là nhờ vào trí tuệ của cậu Bảy. Bốn người khách của cậu Bảy, trong đó có một kỹ sư chăn nuôi, đều trầm trồ thán phục. Đối với họ, cậu Bảy là “bậc kì tài kinh tế”.

Trần Việt Chiến trong NVN là “con ngựa chiến”. “Ai cũng thừa nhận như thế, kể cả những người không ưa anh”. Chiến là thần đồng, là “ánh sao”, là “tiến sĩ hạng tối ưu”. Chiến còn hát hay, giỏi vẽ và hùng biện. Là người hoàn hảo như thế, anh nghĩ mình sẽ dễ dàng thắng con nhện cái mang bọc trứng chui vào tá túc trong mùng của mình. Anh cố giam cho nó chết đói. Việc đó đối với anh dễ như một trò chơi mà không cần động thủ.

Tuy nhiên, các nhân vật của Trần Duy Phiên đều bại trận trước những con côn trùng bé nhỏ. Kiến, mối, nhện đều khiến họ phải thất bại, kinh hãi, lao đao. Ngay khi dương dương tự đắc về cơ ngơi mình vừa tạo dựng, người đàn ông “không chịu thua ai” (KVN) đã phải đối đầu với đàn kiến khổng lồ trả thù vì lãnh địa của chúng bị xâm phạm. “Đàn kiến rải quân khắp nơi”, ngoài vườn rẫy, quanh miệng giếng, trên trần nhà, dưới mặt đất... “Kiến đặc như mè đen”, dày như trấu, rải đều như cát. Ông hạ quyết tâm: “Tao sẽ tận diệt nhà nó không sót một mống!”. Nhưng bọn kiến bao vây, cô lập gia đình ông. Người của công ty Bảo vệ vật nuôi cây trồng của tỉnh đến giải cứu nhưng không thể vượt qua bức tường kiến. Cả gia đình đơn độc tìm kế thoát thân trong nỗi kinh hoàng tột độ. Trước khi tháo chạy, với đòn trả thù “cá chết thì lưới rách”, ông đã châm lửa đốt ngôi nhà của mình, biến cơ ngơi mà ông tự hào thành tro bụi cùng với lũ kiến.

Cậu Bảy thông minh (MVN) và các vị khách luôn ngưỡng mộ, thán phục cách chăn nuôi của cậu cũng không ngờ có hôm lại rơi vào tình huống oái oăm. Sau buổi tiệc chia tay, mọi người say ngủ, lúc tỉnh dậy họ mới phát hiện trên mình không có một mảnh vải che thân. Đêm qua, mối đã “tập kích nghiến sạch, không còn một sợi chỉ”. Áo quần, giường chiếu, tủ kệ, vách nhà, vật dụng, hành trang... của chủ lẫn khách đều tất tật hóa thành mùn bủn. Mọi người hoảng loạn, các cô gái xấu hổ bỏ chạy vào rừng, các chàng trai thu mình trong nhà. Tình thế thật đáng cười ra nước mắt. Bọn mối - những con mồi bé nhỏ đã thể hiện sức mạnh của mình. Chúng khiến cho con người khôn ngoan và mạnh mẽ bị vô hiệu hóa hoàn toàn.

Con ngựa chiến Trần Việt Chiến (NVN) thích thú với ý nghĩ mình đang giam hãm, đang nắm quyền sinh, quyền sát con nhện bé nhỏ. Trước chuyến công tác xa, anh tấn kĩ bốn góc mùng, hy vọng ngày trở về sẽ nhìn thấy xác nhện. Nhưng không, con nhện không những không chết mà còn đẻ một bọc trứng. Chiến bực bội muốn bứt tung mạng nhện, bóp nát bọc trứng. Nhưng khi đưa tay lên mạng nhện, anh phát hiện có một lỗ thủng ở góc mùng phía sau những sợi tơ nhện mảnh mai. Muỗi bị sa vào cái bẫy đó, và nhện không bị đói. Xưa nay đã đặt bẫy thì phải có mồi nhử. “Nhưng mồi đâu mà nhử? - Anh hỏi rồi nhìn xuống người mình. Hèn gì! - Chiến giật mình”. Hóa ra, vị tiến sĩ kiêu ngạo này đã trở thành con mồi lớn để nhện ta nhử lũ muỗi vào và có của ăn của để. Phát hiện này là một đòn knock out đối với Chiến.

Có một sự đảo lộn vị trí rất ghê gớm giữa chủ thể và khách thể trong ba truyện ngắn trên. Con người - đều là những người “không chịu thua ai”, “kì tài”, “ngựa chiến” - đã bị đánh bại bởi những sinh vật bé nhỏ bậc nhất trong thế giới tự nhiên. Nếu xem con người là chủ thể, là trung tâm, có quyền uy và sức mạnh tối thượng như quan niệm xưa nay thì đã xảy ra “cái chết của chủ thể”, sự “lệch tâm” và “tản quyền” của con người. Quan niệm con người là trung tâm của vũ trụ, là chủ nhân của hành tinh này, là động vật bậc cao nhất và có độc quyền thống trị tất thảy là một “đại tự sự” cần phải được xóa bỏ. Trong cuộc đối đầu với con người, những côn trùng trong KVN, MVN, NVN, đã phải khiến những con người ngang bạt phải kính sợ tự nhiên. Họ sợ trí tuệ, sợ sức mạnh, sợ cơn cuồng nộ của tự nhiên bởi “tự nhiên là trung tâm”, nhân loại chỉ là một phần của thế giới tự nhiên - “nhân loại phi trung tâm”. Nhà văn Trần Duy Phiên đã giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm” đầy thâm thúy như thế.

2.2. Lên án sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo nguy cơ sinh thái.

Từ việc coi trọng trí tuệ của tự nhiên, sức mạnh của tự nhiên từ những sinh vật nhỏ nhoi nhất; chùm truyện ngắn của Trần Duy Phiên đã lên án các hành vi tước đoạt tự nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái và cảnh báo nhân loại về các nguy cơ sinh thái.

Người mẹ trong KVN cứ rối bời với câu hỏi: “Nhà mình trước đây chắc có thâm thù chi với kiến?”. Và bà đã nhận ra nguyên nhân của thảm họa kiến: “Đất rừng của chúng, đâu phải của mình”. Người bố thì cực đoan hơn, ông giải thích: “Vì năm nay ta được mùa... Hễ có của là có đứa dòm”. Vậy là hai người có hai quan điểm khác nhau khi nhìn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mà cụ thể là gia đình họ và đàn kiến. Người vợ cho mình là kẻ xâm phạm, là tội đồ; người chồng thì ngược lại, cho mình là kẻ bị xâm phạm, là nạn nhân. Thậm chí, trong cách nhân hóa đầy hằn học của ông, có thể thấy ông đã áp đặt định kiến về thế giới loài người cho loài vật. Từ nhận thức khác nhau, hành động của hai người tất yếu sẽ khác. Người vợ van xin: “Phải cúng vái, cầu đảo ông ơi!... Chúng đông mà mình thì ít, phải nhịn may ra”. Người chồng thì hung hăng: “Ông sẽ không chừa cho một mống nối nòi!”. Một bên muốn nhượng bộ, một bên muốn tấn công hủy diệt. Và cuối cùng, người “không chịu thua ai” buộc phải chịu thua kiến. Từ chỗ nghênh ngang, hiếu thắng, ông sợ hãi, lo lắng, bật khóc, tháo chạy, điên dại. Sau khi đốt nhà, đốt luôn cả lũ kiến, cả gia đình tả tơi chạy về thị xã. “Thắng một trận lớn, tan hoang cửa nhà”. Mất mát không chỉ dừng ở đó. Người mẹ chết. Theo lời người kể chuyện: “Mẹ cháu chết vì nọc kiến. Ba lần bị kiến phủ, đủ lượng độc khiến tim mẹ cháu thôi đập”. Người bố trở thành “người điên đáng kính nhất thị xã” sống nhờ vào hai đứa con nhỏ đi ăn xin. Người kể chuyện và một đứa em gái lớn thì lang thang, phiêu bạt. Và kiến trở thành nỗi ám ảnh suốt đời đối với cậu.

Cách thức lợi dụng và bóc lột tự nhiên của con người trong MVN thật đơn giản, thật nhẹ nhàng mà hiệu quả thì không nhỏ chút nào. Cậu Bảy rất am hiểu tự nhiên. Và cậu vận dụng sự hiểu biết đó để thu lợi cho mình. “Cậu không khai chiến với đồng loại... Cậu hướng cuộc chiến đấu của mình vào thiên nhiên. Khai thác về cho mình và đồng loại”. Chỉ cần đầu tư một lần thắp sáng trại gà bằng điện, cậu có thể điềm nhiên thu lợi suốt đời, vì cậu biết “bao giờ đất không cây thì rừng hết mối”. Mối thay khoảng bốn mươi phần trăm thức ăn cho gà. Và tham vọng của cậu không dừng lại ở đó. Cậu “đang nghĩ cách tăng lượng thu vào mùa mưa, trữ qua mùa khô. Gà có mối quanh năm. Lượng thức ăn chế biến sẽ giảm hơn nữa”. Nhưng dù đa tài, đa trí, đa mưu, cậu Bảy không thể lường trước được khả năng tấn công phục thù của đàn mối. Mối trở thành một thảm họa sinh thái, và sẽ là nguy cơ sinh thái mà cậu sẽ phải gánh chịu trong tương lai. Già Nu hối hận: “Đất này nguyên là giang sơn của mối. Ông Bảy đặt trại, cho máy ủi bằng, cày nát ụ đống mồ mả tổ tiên nhà chúng. Đã thế, ông còn dùng đèn nhử chúng để làm mồi nuôi gà. Ngày ấy ông Bảy nghe tôi chọn cuộc đất bên kia, làm sao có cái họa hôm nay”.

Người đàn ông trong KVN phát điên, cậu Bảy trong MVN thì lại rất tỉnh táo. Lực lượng của mối rất đông qua cuộc tập kích càng cho cậu thêm hy vọng, vì qua đó có thể thấy nguồn thức ăn cho gà vẫn còn rất dồi dào. Cậu Bảy tuyên bố: “Cuộc chiến đấu đang tiếp diễn và còn lâu mới kết thúc... tính sổ đến nay chúng tôi vẫn thắng”. Tuy nhiên, sự tự tin đó chỉ có ở cậu Bảy. Người kể chuyện khẳng định trận này con người “đại bại” và e sợ “rồi một ngày thiên nhiên sẽ khai thác trở lại”. Cô bạn của anh cũng dự báo: “Chúng nó sẽ biến sản nghiệp này ra gò đất bùn”. Nỗi lo sợ xuất phát từ sự trải nghiệm kinh hoàng tác động đến nhận thức của các nhân vật, buộc họ phải thay đổi thái độ và cách ứng xử với tự nhiên để tránh đi những thảm họa sinh thái trong tương lai.

Kết cục đầy bi kịch trong KVN, bi hài kịch trong MVN là tiếng nói lên án sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo nguy cơ sinh thái mà các tác phẩm của Trần Duy Phiên chuyển tải đến người đọc. Để cất lên tiếng nói ấy, nhà văn phải có một tầng sâu trong nhận thức với triết lý về tự nhiên và tư duy sinh thái. Điều đó tạo nên mạch ngầm của văn bản. Và mạch ngầm ấy được thể hiện thông qua nghệ thuật tự sự mang “dấu vân tay” của nhà văn.

2.3. Mạch ngầm văn bản và nghệ thuật tự sự.

Cả ba truyện ngắn KVN, MVN, NVN đều thể hiện trí tuệ, nhận thức và cách ứng xử của con người đối với thế giới tự nhiên. Các nhân vật đều tự tin vào trí tuệ, năng lực của mình. Đặc biệt là năng lực chiến thắng tự nhiên. Người bố trong KVN xem thường tự nhiên, cho mình có quyền xâm lấn và tiêu diệt tự nhiên nếu tự nhiên cản trở đến đời sống của mình. Cậu Bảy trong MVN lại coi trọng tự nhiên, nhưng cụ thể là coi trọng món lợi kếch xù và vô tận mà mình có thể khai thác, cưỡng đoạt từ tự nhiên. Trần Việt Chiến trong NVN thì nghĩ rằng tự nhiên là “đồ ngu” so với loài người. Tất cả các nhân vật đều mắc sai lầm về nhận thức. Sai lầm trong nhận thức chính là nguyên nhân của nguy cơ sinh thái. Soi chiếu bằng triết học Lão Trang, chúng ta có thể hiểu hơn ẩn ý của nhà văn trong mạch ngầm văn bản.

Triết học Lão Trang, mà rõ nhất là Đạo đức kinh của Lão Tử từng chủ trương coi thường trí tuệ: “Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy” (Trí tuệ xuất hiện, sinh ra vô vàn điều giả dối). Theo Lão Tử, càng biết nhiều, người ta càng ham muốn nhiều, có nhiều khả năng thỏa mãn dục vọng và không “tri túc”. Không có trí tuệ nào của con người có thể sánh kịp với “trí tuệ của tự nhiên”. Trí tuệ của con người là thứ trí tuệ xuất phát từ dục vọng. Dục vọng khiến con người “làm” (vi) rất nhiều, “làm” vì “tư dục”. Đó là một trong những mầm mống của loạn. Vì vậy mà Lão Tử chủ trương “vô vi”, phản đối “hữu vi”, nhưng ông chỉ phản đối “làm” những gì trái với tự nhiên để hướng tới “làm” những gì thuận theo tự nhiên. Đạt được điều đó, con người mới có trí tuệ cao nhất, bởi vì “trí tuệ cao nhất là nhận thức và hành động hợp với đạo tự nhiên”(2).

Từ triết học Lão Trang, có thể thấy các nhân vật trong ba truyện ngắn trên đều không có trí tuệ đích thực. Sai lầm nghiêm trọng của họ là ở quan niệm “nhân loại trung tâm”, là tạo nên mặt trái của văn minh từ sự không “tri túc”. Sai lầm đó đã khiến “con ngựa chiến” Trần Việt Chiến ngã ngựa, khiến người “không chịu thua ai” phải tan cửa nát nhà, khiến “bậc kì tài” phải/sẽ tiêu tan sự nghiệp. Vì vậy, chỉ có thể thông qua việc giải cấu trúc triệt để “chủ nghĩa nhân loại trung tâm” mới làm giảm đi sự nguy hại đối với tự nhiên và đồng thời cũng là sự nguy hại đối với nhân loại.

Các nhà sinh thái học cho rằng mỗi hành vi, phẩm chất, thành quả của con người đều phải được xem xét trong mối quan hệ với tự nhiên, trong thái độ đối với tự nhiên. Như vậy, tự nhiên trở thành thước đo giá trị của con người. Từ góc nhìn này, có thể trả lời được thắc mắc của các nhân vật trong MVN về việc vì sao một thanh niên hoàn hảo như cậu Bảy mà lại bị vợ bỏ. Trong khi vợ của cậu chỉ là “một người con gái bình thường, nhan sắc tầm tầm”. Theo các nhà sinh thái học, sự áp bức của con người đối với tự nhiên bao giờ cũng liên quan và đi kèm với sự áp bức của con người đối với con người trong xã hội. Sinh thái học độ sâu (deep ecology) cho rằng nguồn gốc của nguy cơ sinh thái là do con người và tự nhiên bị phân làm hai, sinh thái học chủ nghĩa nữ quyền (eco - feminism) cho rằng thảm họa sinh thái xuất phát từ “chủ nghĩa nam giới trung tâm”, sinh thái học xã hội (cocial ecology) cho rằng nguồn gốc của mọi đổ vỡ của giới tự nhiên là do các vấn đề chính trị có liên quan đến thể chế của tư bản chủ nghĩa. Hiểu được điều nay, ta sẽ hiểu được vì sao người con gái “tầm tầm” ấy lại tự nguyện chia tay với người chồng “kì tài”. Nguyên nhân xã hội của nguy cơ sinh thái, những bất ổn trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người trong MVN, KVN, NVN đều có thể giải mã được từ cách hiểu này.

Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiên được chuyển tải qua nghệ thuật tự sự độc đáo từ nhan đề, người kể chuyện, không gian cho đến ngôn ngữ, giọng điệu… Tất cả tạo nên một sự ám ảnh rợn người khiến độc giả không thể không có cái nhìn khác đi về thế giới quanh ta.

Cả ba tác phẩm đều có cùng một cấu trúc nhan đề theo kiểu “A và B”: Kiến và người, Mối và người, Nhện và người. Ngắn gọn, đơn giản nhưng các nhan đề đều hàm chứa tư duy sinh thái. Về mặt ngữ pháp, quan hệ từ “và” có vai trò kết nối hai yếu tố đẳng lập. Về mặt ngữ nghĩa ngữ dụng, với mục đích nhấn mạnh một yếu tố trong giao tiếp, người sử dụng có thể đặt yếu tố đó lên trước. “Kiến”, “Mối” và “Nhện” được đặt ngang hàng với “người”. Hơn nữa, chúng nằm ở vị trí ưu tiên, trước con người. Vậy nên, qua nhan đề, có thể thấy thái độ tôn trọng tự nhiên của nhà văn. So sánh với Ông già và biển cả của Ernest Hemingway - tác phẩm ngợi ca trí tuệ, ý chí và sức mạnh của con người, có thể thấy sự khác biệt rất lớn. Ông già và biển cả (The Old Man and the Sea) cũng có cấu trúc ngữ pháp như các truyện của Trần Duy Phiên, nhưng “Ông già” (The Old Man) đứng trước, “Biển cả” (the Sea) đứng sau. Sắp xếp vị trí như thế không phải nhằm mục đích đề cao tự nhiên.

KVN, MVN được kể ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong của người kể chuyện trải nghiệm. Đó là những “cái tôi” thức tỉnh, phản tỉnh sau một phen kinh hoàng từ hiểm họa của tự nhiên. Hình thức kể này càng làm tăng độ xác tín của câu chuyện, tác động mạnh đến nhận thức của người đọc về sức mạnh của tự nhiên. NVN lại được kể ở ngôi thứ ba với hai kiểu điểm nhìn. Đầu truyện, người kể chuyện “thượng đế” khẳng định và chứng minh chất “ngựa chiến” của Trần Việt Chiến từ điểm nhìn bên ngoài, rất khách quan. Từ khi Chiến phát hiện ra con nhện trở đi, điểm nhìn tự sự được dịch chuyển vào bên trong nhân vật. Anh quan sát con nhện và chờ đợi nó chết mòn từ sự giam hãm của anh. Con nhện vẫn ngày qua ngày “an nhiên”, “ngang nhiên tồn tại”, “lì lợm sống” và còn “đẻ”. Chiến thì từ “rủa thầm”, “thích chí”, “ngứa mắt”, “chờ đợi”, “hong hóng”, “nôn nao”, “háo hức”, “hả hê”, đến “giật mình”. Điểm nhìn bên trong cho thấy từng bước nhận thức và tỉnh ngộ của Chiến. “Tính ác” và khí chất ngạo mạn trong anh tiêu tan, chỉ còn sự kính sợ tự nhiên chiếm ngự. Bút pháp đòn bẫy là một “trò chơi” độc đáo trong nghệ thuật tự sự của cả ba truyện ngắn. Các truyện đều mở đầu bằng sự tán dương giá trị của con người. Tạo cho người đọc hy vọng về những chiến công của họ. Nhưng thật bất ngờ, họ thảm bại trước những sinh vật nhỏ nhoi nhất. Chúng lật đổ giá trị người một cách ngoạn mục theo kiểu “châu chấu đá xe”, gây cho người trong cuộc nỗi khiếp sợ, thán phục và ám ảnh rất lớn. Bút pháp đòn bẫy đã làm nên những cuộc tấn phong và hạ bệ đầy trớ trêu và sâu cay đối với con người, giá trị người.

Ngôn ngữ kể, tả và bình luận của cả ba truyện ngắn đều rất đa biến, giàu hình ảnh. Ngôn ngữ của KVN rất giàu chất cảm giác. Kiến hiện diện khắp nơi, đặc quánh trong không gian, ken dày trong thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. MVN gây ấn tượng rùng rợn bởi sự miêu tả với những hình ảnh ngập ngụa mục bủn do đàn mối tàn phá. Ngôn ngữ bình luận của các nhân vật lại gợi mở nhiều quan niệm sống, quan niệm ứng xử với môi trường tự nhiên. NVN hấp dẫn bởi thứ ngôn ngữ kể linh hoạt, tươi tắn, hài hước để cuối cùng “lật tẩy” những hạn chế, hạn định, hạn tri của con người trong thế giới kỳ thú này.

Trong KVN, MVN có sự đối thoại giữa các nhân vật tạo nên chất đa thanh, đa giọng điệu cho tác phẩm. NVN cũng có đối thoại, nhưng là đối thoại trong độc thoại của nhân vật chính - “vi đối thoại”. Đối thoại của ba tác phẩm không đơn thuần dừng ở cấp độ đối đáp mà thực chất là thể hiện sự đối lập về lập trường tư tưởng của nhân vật. Khi diễn tả tư tưởng nghĩa là đối thoại đã đạt đến tầm của những diễn ngôn. Vì vậy trên thực chất, đối thoại trong KVN, MVN, NVN là diễn ngôn của tư tưởng sinh thái. Sức lan tỏa, sức lay động, sức thuyết phục của các tác phẩm có được chính là nhờ diễn ngôn mang tầm thời đại, tầm nhân loại này.

3. Văn chương sinh thái đề cao thế giới tự nhiên không phải để phủ định một cách triệt để địa vị và tác dụng của con người mà chỉ hy vọng hạn chế những dục vọng quá lớn của con người cùng những suy nghĩ và hành động phi lí, phi nhân của họ đối với tự nhiên. Bộ ba truyện ngắn KVN, MVN, NVN của Trần Duy Phiên cũng vậy. Trong bối cảnh văn học nước ta gần như đang bàng quan trước những tổn thất do thiên tai, những hành động tàn phá môi trường mà cả dân tộc và nhân loại đang phải đối mặt và gánh chịu, những tác phẩm trên của Trần Duy Phiên thật cần thiết và có ý nghĩa. Chúng đáp ứng được tính tất yếu và tính cấp thiết, đáp ứng yêu cầu thời đại, tâm thức thời đại; thể hiện sự gắn bó thiết thực đời sống văn chương với đời sống xã hội; phát huy trách nhiệm của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường và ngăn chặn các nguy cơ sinh thái.

N.T.T.T
(SH317/07-15)
 

.................................................
(1) Viên Hà, Sinh thái phê bình: Định nghĩa, phát triển xu hướng cập tại Trung Quốc đích tiếp  thụ, http://www.yilin.com
(2) Lại Quốc Khánh, Quan niệm về “trí tuệ” trong triết học Trung Quốc thời kỳ Tiên Tần, http:// www.inas.gov.vn  




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.