Tứ thơ vụt bay lên từ đôi dải yếm

16:35 12/05/2009
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

Trong dòng văn học dân gianViệt Nam, có những câu ca dao mà đề tài chỉ là cặp dải yếm của cô thôn nữ, thế mà cũng đủ rung động thành thơ.
Nếu tôi nhớ không lầm thì sự tích của cái yếm là thế này: một nàng cung nữ xinh đẹp, trong giấc ngủ quá say nồng, đã để lộ khuôn ngực trần của mình. Nhà vua đi qua, thấy vậy, thương quá, vua lấy tấm khăn tay bằng lụa đắp lên ngực người cung phi ấy, và rồi chẳng phải qua biến tấu gì lôi thôi, chỉ thêm hai cặp dải, một cặp đeo lên cổ, một cặp thắt qua lưng, thế là thành chiếc yếm.

Thời bây giờ chỉ còn thấy yếm trong thơ, trong tranh và trên sân khấu. Thiếu nữ bây giờ không mang yếm nữa, nhưng cách đây chừng nửa thế kỷ thì chiếc yếm là trang phục phổ biến của phụ nữ nông thôn. Chỉ có màu yếm là khác theo tuổi tác.
Màu yếm đỏ là màu dành cho các cô thiếu nữ:
            Có cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
            Sư về sư ốm tương tư
            Ôëm lăn ốm lóc cho sự trọc đầu
           
                                    (ca dao)
            Yếm đào trễ xuống dưới nương ong
            Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
                                                (Hồ Xuân Hương)
            Yếm hồng thôn nữ tươi đường lúa
            Chùa lợp ngàn hoa đại trắng tinh
                                                 (Anh Thơ)

Rõ ràng chiếc yếm đã có một thời rạng rỡ nhường bao! Nhớ lại trong hội làng thời ấy, các cô thôn nữ nhí nhảnh, khúc khích trên đường, cô nào cũng mang yếm đỏ, như một đàn bướm đỏ bay làm xao xuyến cả đất trời, làm xao xuyến cả hội làng.
Đó là những chiếc yếm. Phần hết sức nhỏ nhoi tưởng không đáng kể của những chiếc yếm là hai cặp dải yếm mỏng manh, thường khi mặc trong áo không hề lộ ra ngoài. Chỉ có thơ đụng vào cặp dải yếm đó, bỗng dưng cặp dải yếm hiện hình và tồn tại cùng thời gian.

Đầu tiên là lời tán tỉnh rất có lý:
            Thuyền anh mắc cạn lên đây
            Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền
Cái sự giao thoa của con thuyền và chiếc yếm ở đây là sợi dây kéo thuyền sợi dải yếm. Đấy là cái cớ của sự tán tỉnh, và ở đấy cũng bật lên tứ thơ. Tứ thơ tác giả dân gian tìm ra ở đây là sự có lý mà vô lý. Ai đã từng kéo thuyền trên sông, sẽ hiểu khi thuyền ngược gió, cánh buồm không còn tác dụng nữa. Những người trên thuyền, có khi bốn người, có khi năm người, móc sợi dây chạc vào thuyền, còn đầu kia năm người khoác dây lên vai kéo. Con thuyền nhích lên từng bước theo chân người kéo thuyền. Sợi dây kéo thuyền ấy dài ba bốn chục mét. Trong khi đó sợi dây dải yếm chỉ dài vài gang tay. Có được cái hợp lý, ta chấp nhận được và nó thành thơ, chính là sự rung động trong lòng về cái sợi dây dải yếm kia.

Cũng cùng sự phi lý hết sức ấy là câu ca dao này:
            Trời mưa trời gió kìn kìn
            Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông
Dĩ nhiên trời gió mưa nhường ấy thì lạnh lắm. Khi lạnh là nghĩ ngay tới một cái gì để đắp. Cái để đắp ấy là những chiếc chăn. Đó là lẽ thường. Nhưng ở con người đang yêu say đắm này thì cái đắp lại là đôi dải yếm. Chăn thường rộng mấy mét, còn dải yếm chỉ rộng băâng hai ngón tay. Vậy cái để đắp ấm hơn nghìn chăn bông ấy là cái nóng rực của tình yêu.

Cũng chính tình yêu, cho nên cô gái bỗng vụt có niềm ao ước đến không cùng:
            Ước gì sông rộng một gang
            Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Lại cái dải yếm. Thế là cái dải yếm đã làm dây kéo thuyền, đã làm chăn để đắp, bây giờ dải yếm lại làm cầu. Đọc câu thơ mà cứ hình dung ra nàng thiếu nữ đang cởi chiếc yếm của mình ra, rồi hai tay cầm hai đầu dải yếm kéo căng ra đặt ngang con sông rộng chỉ một gang tay làm chiếc cầu màu đỏ vắt qua dòng sông xanh. Chiếc cầu đó chỉ có một tên gọi: chiếc cầu tình yêu. Và chiếc cầu ấy chỉ có một trên đời. Lãng mạn đến như thế là cùng. Ai được qua chiếc cầu ấy chắc chắn là hạnh phúc lắm.

Toàn là những chuyện không có thực trong đời. Nào là dải yếm làm dây kéo thuyền, nào là dải yếm làm chăn đắp, nào là dải yếm làm cầu. Toàn là sự phi lý cả. Nhưng lại rất được yêu thương. Chỉ có thơ mới chuyển tải được sự phi lý ấy, và buộc cho người ta phải chấp nhận sự phi lý. Không những thế, những câu thơ ấy còn được khen là rất thơ, là rất hay nữa.

Thế là từ cái thực "đôi dải yếm" vụt bay lên thành tứ thơ, khi nó được rung cảm thực sự của trái tim. Đúng như định nghĩa: Thơ là tiếng hát của trái tim vậy. Chỉ có cái tình, chỉ có tình yêu mới đủ sức biến hoá được như thế.
Trong thơ, có hai điều luôn luôn được chú ý, đó là cái thực và cái ảo. Cái thực chỉ làm cho người ta chấp nhận, nhưng cái ảo mới làm cho người ta rung động, và sự rung động ấy bỗng thành thơ.

Nhân nói về cái thực và cái ảo, tôi xin dẫn ra đây câu ca này:
            Khi đi bóng hãy còn dài
            Khi về bóng đã nghe ai bóng tròn
Cái bóng người ta đổ trên mặt đất. Như chúng ta biết bóng dài là khi mặt trời ở phía đông hay phía tây. Và bóng tròn khi mặt trời ở đỉnh đầu. Đó, cái thực của nó là vậy. Nhưng cái ảo ở đây thật là tình: "Bóng đã nghe ai bóng tròn". Hai chữ "nghe ai" đầy chất ghen tuông sao mà hay thế. Nếu không có hai chữ "nghe ai", chắc chắn câu ca dao chả thành thơ, và chả ai thèm nhớ. Chữ nghĩa, hình ảnh đã thành thơ là thế.

Vẫn nói về chiếc yếm, còn có 4 câu ca dao rất hay:
            Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
            Em có chồng rồi trả yếm cho anh
            Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
            Yếm em em mặc, yếm chi anh anh đòi

Cô gái đáng khen là rất sòng phẳng: "trả yếm cho anh", chàng trai càng cao thượng: "yếm chi anh anh đòi". Tình yêu choáng ngợp để họ yêu thương nhau mãi mãi. Để bạn đọc tự hiểu, xin không có lời bình nào nữa.
"Đôi dải yếm", cái thứ tượng vặt vãnh không đáng kể ấy mà bỗng vụt thành tứ thơ.
Thật đơn giản, thơ là vậy.

N.Q.H
(171/05-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.

  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.