Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Ý thức được vai trò của trí thức trong việc chấn hưng dân trí, người ta đã lấy tên ông đặt tên cho Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh. Thành quả to lớn trong những năm gần đây là quỹ này đã bước đầu xây dựng được Tủ sách tinh hoa tri thức thế giới, một tủ sách kinh điển nhằm đánh thức cách nhìn của chúng ta về vai trò của tri thức đối với sự phồn thịnh của một dân tộc.
Nhìn vào các đầu sách của Tủ sách Tinh hoa người ta nhận thấy, tinh thần nhất quán của tủ sách này chính là tinh thần khai minh, tinh thần khai sáng dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc của trí tuệ, dựa trên những cấp độ tư duy sâu rộng và khả năng sáng tạo vượt bậc đi ra từ căn nền của triết học, khoa học, mỹ học,…
Muốn nhìn xa tất yếu phải đứng trên vai của những người khổng lồ. Chỉ có trên tầm cao ấy đôi mắt của chúng ta mới có thể vén mở được những giới hạn của chân trời. Qua tủ sách Tinh hoa chúng ta được gặp những người khổng lồ Kant, John Dewey, Rousseau, Gustav Jung, Roland Barthes,… Từ đó chúng ta thấy rằng chỉ có bằng con đường của trí tuệ, bằng con đường được khai mở từ tư duy của những bậc thiên tài chúng ta mới có thể thoát ra khỏi những vướng mắc triền miên trong môi trường tụt hậu về mọi mặt. Chỉ có đứng trên nền tảng của tri thức thì mới có thể khai phóng tư duy, khai phóng cách nhìn của chúng ta về thế giới khách quan và thế giới tâm hồn, khỏa lấp những lỗ hỏng đã bị tạo ra từ trước, mới đem lại cho chính bản thân và kể cả cộng đồng những hứa hẹn vén mở.
Từ Tủ sách tinh hoa chúng ta thấy mình sống trong một thế giới đầy xáo trộn. Thực tế ngày nay, chúng ta đang trượt trôi trong một hoàn cảnh mà ngay chính ngôn ngữ của chúng ta cũng không thể diễn giải một cách trọn vẹn và đích xác. Vật lý lượng tử ra đời đã kéo theo những đổ vỡ trong cách chúng ta thức nhận về thế giới khách quan mà trước đây người ta nhầm tưởng đó là những khế ước của lý trí vĩnh cửu. Chúng ta đang lưu trú trong một ngôi nhà mà ngay chính chúng ta không mấy am tường về nó, có nghĩa là chúng ta đang đối mặt với những nguy cơ không thể dự báo. Giới hạn của ngôn ngữ trong việc mô phỏng thế giới ngày nay, theo Werner Heisenberg, có nghĩa là “Người ta còn chưa tìm được một ngôn ngữ dùng để nói về tình hình mới… kỹ thuật thực nghiệm được cải tiến của thời đại ngày nay đã đưa vào trong phạm vi của khoa học những khía cạnh mới của tự nhiên mà không thể mô tả được bằng các khái niệm thông thường. Vậy thì các khía cạnh mới sẽ được mô tả bằng ngôn ngữ nào?”(1) Con người đã tạo ra ngôn ngữ và rồi nương nhờ vào nó để được hiện hữu và sáng tạo, nhưng cuối cùng, chúng ta lại trở nên vấp phải những giới hạn của chính ngôn ngữ. Phải chăng bản thân nội tại ngôn ngữ chưa kịp hình thành những khái niệm mới mà nó vẫn đang nằm trong những quy tắc, quy ước cũ, trong khi thế giới khách quan không ngừng biến thiên theo quy luật vận hành của nó và theo cách mà chính loài người nhìn nhận nó. Do đó ngôn ngữ trở nên mơ hồ và trình ra những hạn định trước việc diễn dịch một thực tại khác.
Trong quá trình tự hoàn thiện, chúng ta luôn luôn đối mặt với những giới hạn và lao vào những vùng mờ của tư duy. Tủ Sách tinh hoa, ở một khía cạnh nào đó, đã giúp chúng ta nhận biết thực tế là mình đã hiểu được những gì về hiện thực trong một thứ hiện thực “bất định, mơ hồ và hoài nghi.”(2) Từ khoa học luận của Gaston Bachelard chúng ta thấy rằng lý trí đã dìu dắt chúng ta như thế nào và vì sao những giới hạn của nó lại đẩy chúng ta lâm vào những “chướng ngại nhận thức”(3). Và để vượt qua những giới hạn chúng ta cần hướng đến một “tinh thần khoa học phải được hình thành trong sự đối nghịch, tinh thần khoa học phải tự hình thành bằng cách tự cải tạo… Thấu đạt vào khoa học chính là sự cải lão hoàn đồng nhận thức, chính là chấp nhận sự thay da đổi thịt đột ngột, có ý nghĩa phủ định quá khứ.”(4)
Trong nghệ thuật, chúng ta luôn tự hỏi vì sao mình cứ mãi loay hoay rồi trở nên an lòng với lối nghệ thuật mô phỏng thực tại. Vì sao sáng tạo của chúng ta chưa thể đi trước những khám phá của vật lý. Chúng ta quá nghèo nàn trước sự phóng tưởng sáng tạo của Kafka, Boger, Bùi Giáng,… Có lẽ bởi vì chúng ta chưa thấy được sự khai mở và tính chất vận động thực sự trong bản chất của thực tại. Chúng ta luôn tin vào những gì mình thấy mà ít khi hoài nghi chính tri giác của mình. Hay nói như David Bohm “là vì chúng ta đã quá quen thuộc với trật tự hiện, đã nhấn mạnh nó quá mức trong tư duy và ngôn ngữ của mình…”(5) Sáng tạo của chúng ta đang mắc cạn trong vô vàn những hạn định. Trong khi hiện thực đã trở nên phân mảnh và rạn nứt thì chúng ta vẫn tin tưởng và bám víu vào một thứ hiện thực chết cứng trong niềm tin tuyệt đối, niềm tin cũ kỹ của quan niệm và của tri giác. Cần khơi mở những dạng thức thực tại mới mà nghệ thuật hậu hiện đại gọi là những simulacrum(6) (vật thể giả tạo), những dạng thức hiện thực của phóng tưởng sáng tạo, nằm trong quá trình truy tìm những ảnh tượng trong miền sâu của trí tưởng tượng, của một dạng trật tự nào đó chưa được đặt tên. Hiện thực khách quan đang giấu giếm chúng ta những gì? Tri thức khách quan mà lý tính đem lại cho chúng ta đã phản ảnh được bao nhiêu so với biển trời ngoại giới? Trong khi đó, ngay chính ở bản thân mỗi cá thể đơn lẻ chúng ta lại đang chứa ẩn cả một thế giới vô thức, tiềm thức mênh mông.
“Quả thật cho đến hôm nay, ta vẫn còn là một ốc đảo cách biệt rất xa với đại dương mênh mông của tri thức nhân loại, cả cổ điển lẫn đương đại, đó là điều không thể và cũng không nên cố tìm cách chối cãi.”(7) Đây là một sự thật đáng buồn không phải bất cứ người Việt nào cũng có thể thức nhận và bằng lòng chấp nhận.
Gần đây, nhiều người kỳ vọng vào một nền học thuật mới mẻ, một sự làm chủ tri thức thật sự của người Việt trong một tương lai gần khi nhìn vào tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh và Nhà xuất bản Tri Thức. Nhưng không hẳn thế. Chúng ta, những người có ước vọng về một nền văn hóa đọc vững chắc cho dân tộc, sẽ không tránh khỏi đau lòng khi nghe giáo sư Chu Hảo nói về tình trạng ế ẩm của tủ sách tinh hoa trong cuộc tọa đàm thông báo về giải thưởng Phan Châu Trinh 2012: “Mỗi một cuốn sách, dù là rất có giá trị, cũng không thể bán được trên 2.000 cuốn trên 84 triệu dân. Tôi nói như vậy chắc ai nghe cũng đau lòng. So sánh với những cuốn sách có thị hiếu văn hóa như nhiều người nói là không cao, chúng cũng bán được 10.000-15.000 bản”.(8)
Khát vọng của tủ sách tinh hoa là chấn hưng dân trí, và sự thật là chúng ta thấy rõ được điều đó qua các đầu sách mà tủ sách này lựa chọn để tổ chức dịch thuật và xuất bản, quảng bá. Nhưng với sự thật đau lòng này thì liệu đến bao giờ dân trí mới được chấn hưng.
Không ai được phép xem thường trí thông minh của giới trẻ hiện nay, nhưng họ cần sự định hướng của những người đi trước. Một ai đó từng nói rằng kinh nghiệm thật ra chỉ là tên gọi của những sai lầm. Phải giúp tuổi trẻ nhìn thấy sai lầm của người đi trước.
Chúng ta an lòng phần nào khi con cái mình bước tới nhà sách thay cho việc thức thâu đêm để chờ đợi rồi hôn lên những chiếc ghế của các thần tượng ca nhạc, thời trang, điện ảnh và khóc lóc, gào thét khi không chạm được vào tay thần tượng của mình.
Nhưng không phải ai trong chúng ta cũng biết con cái chúng ta sẽ lựa chọn những cuốn sách nào trong một rừng sách ngút trời ở đó, khi quanh chúng nhan nhản những cuốn tiểu thuyết diễm tình của văn học Trung Quốc, những câu chuyện ướt át bởi tình dục, những cuốn có nhan đề giật gân đánh vào tâm lý tò mò của giới trẻ mà vì lợi nhuận nên các nhà sách ồ ạt cho ra lò mà không nghĩ đến sự nguy hại của chúng.
Trong khi đó, những cuốn như Tâm lý học đám đông của Gustave Le Bon, Chính thể đại diện của John Stuart Mill, Những huyền thoại của Roland Barthes, Vật lý và triết học của Werner Heisenberg, Sự hình thành tinh thần khoa học của Gaston Bachelard, Luận về biếu tặng của Marcel Mauss,... vẫn nằm im lìm trên các giá sách mặc cho sự cô đơn của cả một thế giới kiến thức khổng lồ, sâu rộng và những lý giải học thuật nghiêm xác, bổ ích bên trong chúng.
Ngoái nhìn phương Tây, khoa học và nghệ thuật của họ luôn có những bước đột khởi bởi họ dựa trên những căn nền vững chắc dưới sự tài trợ của những nhà kinh tế lớn. Còn chúng ta, phải chăng phần lớn đang mải mê với những cuộc chơi khác mà ở đó sách vở và tri thức không thể dự phần?
Sông Hương
(SH298/12-13)
-----------------------
1. Xem Werner Heisenberg, Vật lý và triết học – cuộc cách mạng trong khoa học hiện đại, Phạm Văn Thiều, Trần Quốc Túy dịch, Nxb Tri thức 2009, tr232.
2. Xem F.David Peat, Từ xác định đến bất định - Những câu chuyện về khoa học và tư tưởng của thế kỷ 20, Phạm Việt Hưng dịch, Nxb Tri thức, 2011.
3. Chữ của Gaston Bachelard, trong công trình Sự hình thành tinh thần khoa học (Góp phần phân tâm luận về sự hiểu biết khách quan), Hà Dương Tuấn dịch, Nxb Tri thức 2009.
4. Xem Gaston Bachelard, Sự hình thành tinh thần khoa học (Góp phần phân tâm luận về sự hiểu biết khách quan), Hà Dương Tuấn dịch, Nxb Tri thức 2009. tr42.
5. Xem David Bohm, Cái toàn thể và trật tự ẩn, Tiết Hùng Thái dịch, Nxb Tri thức 2011.
6. Về thuật ngữ này xin xem thêm Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại, những khái niệm căn bản. Tạp chí Việt, số 7. Hoặc xem Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại, những khái niệm căn bản, in trong Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết, Nxb Hội nhà văn & Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2003, tr165.
7. Nguyên Ngọc, Một sự nghiệp lớn và cấp thiết, in trong Tinh thần khai minh (Diễn từ nhận giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh), Nxb Tri thức 2012, tr40.
8. Xem http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/114387/ sach--chan-hung-dan-tri--bi-ghe-lanh-nhu-the- nao-.html
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.