Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Ý thức được vai trò của trí thức trong việc chấn hưng dân trí, người ta đã lấy tên ông đặt tên cho Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh. Thành quả to lớn trong những năm gần đây là quỹ này đã bước đầu xây dựng được Tủ sách tinh hoa tri thức thế giới, một tủ sách kinh điển nhằm đánh thức cách nhìn của chúng ta về vai trò của tri thức đối với sự phồn thịnh của một dân tộc.
Nhìn vào các đầu sách của Tủ sách Tinh hoa người ta nhận thấy, tinh thần nhất quán của tủ sách này chính là tinh thần khai minh, tinh thần khai sáng dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc của trí tuệ, dựa trên những cấp độ tư duy sâu rộng và khả năng sáng tạo vượt bậc đi ra từ căn nền của triết học, khoa học, mỹ học,…
Muốn nhìn xa tất yếu phải đứng trên vai của những người khổng lồ. Chỉ có trên tầm cao ấy đôi mắt của chúng ta mới có thể vén mở được những giới hạn của chân trời. Qua tủ sách Tinh hoa chúng ta được gặp những người khổng lồ Kant, John Dewey, Rousseau, Gustav Jung, Roland Barthes,… Từ đó chúng ta thấy rằng chỉ có bằng con đường của trí tuệ, bằng con đường được khai mở từ tư duy của những bậc thiên tài chúng ta mới có thể thoát ra khỏi những vướng mắc triền miên trong môi trường tụt hậu về mọi mặt. Chỉ có đứng trên nền tảng của tri thức thì mới có thể khai phóng tư duy, khai phóng cách nhìn của chúng ta về thế giới khách quan và thế giới tâm hồn, khỏa lấp những lỗ hỏng đã bị tạo ra từ trước, mới đem lại cho chính bản thân và kể cả cộng đồng những hứa hẹn vén mở.
Từ Tủ sách tinh hoa chúng ta thấy mình sống trong một thế giới đầy xáo trộn. Thực tế ngày nay, chúng ta đang trượt trôi trong một hoàn cảnh mà ngay chính ngôn ngữ của chúng ta cũng không thể diễn giải một cách trọn vẹn và đích xác. Vật lý lượng tử ra đời đã kéo theo những đổ vỡ trong cách chúng ta thức nhận về thế giới khách quan mà trước đây người ta nhầm tưởng đó là những khế ước của lý trí vĩnh cửu. Chúng ta đang lưu trú trong một ngôi nhà mà ngay chính chúng ta không mấy am tường về nó, có nghĩa là chúng ta đang đối mặt với những nguy cơ không thể dự báo. Giới hạn của ngôn ngữ trong việc mô phỏng thế giới ngày nay, theo Werner Heisenberg, có nghĩa là “Người ta còn chưa tìm được một ngôn ngữ dùng để nói về tình hình mới… kỹ thuật thực nghiệm được cải tiến của thời đại ngày nay đã đưa vào trong phạm vi của khoa học những khía cạnh mới của tự nhiên mà không thể mô tả được bằng các khái niệm thông thường. Vậy thì các khía cạnh mới sẽ được mô tả bằng ngôn ngữ nào?”(1) Con người đã tạo ra ngôn ngữ và rồi nương nhờ vào nó để được hiện hữu và sáng tạo, nhưng cuối cùng, chúng ta lại trở nên vấp phải những giới hạn của chính ngôn ngữ. Phải chăng bản thân nội tại ngôn ngữ chưa kịp hình thành những khái niệm mới mà nó vẫn đang nằm trong những quy tắc, quy ước cũ, trong khi thế giới khách quan không ngừng biến thiên theo quy luật vận hành của nó và theo cách mà chính loài người nhìn nhận nó. Do đó ngôn ngữ trở nên mơ hồ và trình ra những hạn định trước việc diễn dịch một thực tại khác.
Trong quá trình tự hoàn thiện, chúng ta luôn luôn đối mặt với những giới hạn và lao vào những vùng mờ của tư duy. Tủ Sách tinh hoa, ở một khía cạnh nào đó, đã giúp chúng ta nhận biết thực tế là mình đã hiểu được những gì về hiện thực trong một thứ hiện thực “bất định, mơ hồ và hoài nghi.”(2) Từ khoa học luận của Gaston Bachelard chúng ta thấy rằng lý trí đã dìu dắt chúng ta như thế nào và vì sao những giới hạn của nó lại đẩy chúng ta lâm vào những “chướng ngại nhận thức”(3). Và để vượt qua những giới hạn chúng ta cần hướng đến một “tinh thần khoa học phải được hình thành trong sự đối nghịch, tinh thần khoa học phải tự hình thành bằng cách tự cải tạo… Thấu đạt vào khoa học chính là sự cải lão hoàn đồng nhận thức, chính là chấp nhận sự thay da đổi thịt đột ngột, có ý nghĩa phủ định quá khứ.”(4)
Trong nghệ thuật, chúng ta luôn tự hỏi vì sao mình cứ mãi loay hoay rồi trở nên an lòng với lối nghệ thuật mô phỏng thực tại. Vì sao sáng tạo của chúng ta chưa thể đi trước những khám phá của vật lý. Chúng ta quá nghèo nàn trước sự phóng tưởng sáng tạo của Kafka, Boger, Bùi Giáng,… Có lẽ bởi vì chúng ta chưa thấy được sự khai mở và tính chất vận động thực sự trong bản chất của thực tại. Chúng ta luôn tin vào những gì mình thấy mà ít khi hoài nghi chính tri giác của mình. Hay nói như David Bohm “là vì chúng ta đã quá quen thuộc với trật tự hiện, đã nhấn mạnh nó quá mức trong tư duy và ngôn ngữ của mình…”(5) Sáng tạo của chúng ta đang mắc cạn trong vô vàn những hạn định. Trong khi hiện thực đã trở nên phân mảnh và rạn nứt thì chúng ta vẫn tin tưởng và bám víu vào một thứ hiện thực chết cứng trong niềm tin tuyệt đối, niềm tin cũ kỹ của quan niệm và của tri giác. Cần khơi mở những dạng thức thực tại mới mà nghệ thuật hậu hiện đại gọi là những simulacrum(6) (vật thể giả tạo), những dạng thức hiện thực của phóng tưởng sáng tạo, nằm trong quá trình truy tìm những ảnh tượng trong miền sâu của trí tưởng tượng, của một dạng trật tự nào đó chưa được đặt tên. Hiện thực khách quan đang giấu giếm chúng ta những gì? Tri thức khách quan mà lý tính đem lại cho chúng ta đã phản ảnh được bao nhiêu so với biển trời ngoại giới? Trong khi đó, ngay chính ở bản thân mỗi cá thể đơn lẻ chúng ta lại đang chứa ẩn cả một thế giới vô thức, tiềm thức mênh mông.
“Quả thật cho đến hôm nay, ta vẫn còn là một ốc đảo cách biệt rất xa với đại dương mênh mông của tri thức nhân loại, cả cổ điển lẫn đương đại, đó là điều không thể và cũng không nên cố tìm cách chối cãi.”(7) Đây là một sự thật đáng buồn không phải bất cứ người Việt nào cũng có thể thức nhận và bằng lòng chấp nhận.
Gần đây, nhiều người kỳ vọng vào một nền học thuật mới mẻ, một sự làm chủ tri thức thật sự của người Việt trong một tương lai gần khi nhìn vào tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh và Nhà xuất bản Tri Thức. Nhưng không hẳn thế. Chúng ta, những người có ước vọng về một nền văn hóa đọc vững chắc cho dân tộc, sẽ không tránh khỏi đau lòng khi nghe giáo sư Chu Hảo nói về tình trạng ế ẩm của tủ sách tinh hoa trong cuộc tọa đàm thông báo về giải thưởng Phan Châu Trinh 2012: “Mỗi một cuốn sách, dù là rất có giá trị, cũng không thể bán được trên 2.000 cuốn trên 84 triệu dân. Tôi nói như vậy chắc ai nghe cũng đau lòng. So sánh với những cuốn sách có thị hiếu văn hóa như nhiều người nói là không cao, chúng cũng bán được 10.000-15.000 bản”.(8)
Khát vọng của tủ sách tinh hoa là chấn hưng dân trí, và sự thật là chúng ta thấy rõ được điều đó qua các đầu sách mà tủ sách này lựa chọn để tổ chức dịch thuật và xuất bản, quảng bá. Nhưng với sự thật đau lòng này thì liệu đến bao giờ dân trí mới được chấn hưng.
Không ai được phép xem thường trí thông minh của giới trẻ hiện nay, nhưng họ cần sự định hướng của những người đi trước. Một ai đó từng nói rằng kinh nghiệm thật ra chỉ là tên gọi của những sai lầm. Phải giúp tuổi trẻ nhìn thấy sai lầm của người đi trước.
Chúng ta an lòng phần nào khi con cái mình bước tới nhà sách thay cho việc thức thâu đêm để chờ đợi rồi hôn lên những chiếc ghế của các thần tượng ca nhạc, thời trang, điện ảnh và khóc lóc, gào thét khi không chạm được vào tay thần tượng của mình.
Nhưng không phải ai trong chúng ta cũng biết con cái chúng ta sẽ lựa chọn những cuốn sách nào trong một rừng sách ngút trời ở đó, khi quanh chúng nhan nhản những cuốn tiểu thuyết diễm tình của văn học Trung Quốc, những câu chuyện ướt át bởi tình dục, những cuốn có nhan đề giật gân đánh vào tâm lý tò mò của giới trẻ mà vì lợi nhuận nên các nhà sách ồ ạt cho ra lò mà không nghĩ đến sự nguy hại của chúng.
Trong khi đó, những cuốn như Tâm lý học đám đông của Gustave Le Bon, Chính thể đại diện của John Stuart Mill, Những huyền thoại của Roland Barthes, Vật lý và triết học của Werner Heisenberg, Sự hình thành tinh thần khoa học của Gaston Bachelard, Luận về biếu tặng của Marcel Mauss,... vẫn nằm im lìm trên các giá sách mặc cho sự cô đơn của cả một thế giới kiến thức khổng lồ, sâu rộng và những lý giải học thuật nghiêm xác, bổ ích bên trong chúng.
Ngoái nhìn phương Tây, khoa học và nghệ thuật của họ luôn có những bước đột khởi bởi họ dựa trên những căn nền vững chắc dưới sự tài trợ của những nhà kinh tế lớn. Còn chúng ta, phải chăng phần lớn đang mải mê với những cuộc chơi khác mà ở đó sách vở và tri thức không thể dự phần?
Sông Hương
(SH298/12-13)
-----------------------
1. Xem Werner Heisenberg, Vật lý và triết học – cuộc cách mạng trong khoa học hiện đại, Phạm Văn Thiều, Trần Quốc Túy dịch, Nxb Tri thức 2009, tr232.
2. Xem F.David Peat, Từ xác định đến bất định - Những câu chuyện về khoa học và tư tưởng của thế kỷ 20, Phạm Việt Hưng dịch, Nxb Tri thức, 2011.
3. Chữ của Gaston Bachelard, trong công trình Sự hình thành tinh thần khoa học (Góp phần phân tâm luận về sự hiểu biết khách quan), Hà Dương Tuấn dịch, Nxb Tri thức 2009.
4. Xem Gaston Bachelard, Sự hình thành tinh thần khoa học (Góp phần phân tâm luận về sự hiểu biết khách quan), Hà Dương Tuấn dịch, Nxb Tri thức 2009. tr42.
5. Xem David Bohm, Cái toàn thể và trật tự ẩn, Tiết Hùng Thái dịch, Nxb Tri thức 2011.
6. Về thuật ngữ này xin xem thêm Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại, những khái niệm căn bản. Tạp chí Việt, số 7. Hoặc xem Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại, những khái niệm căn bản, in trong Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết, Nxb Hội nhà văn & Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2003, tr165.
7. Nguyên Ngọc, Một sự nghiệp lớn và cấp thiết, in trong Tinh thần khai minh (Diễn từ nhận giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh), Nxb Tri thức 2012, tr40.
8. Xem http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/114387/ sach--chan-hung-dan-tri--bi-ghe-lanh-nhu-the- nao-.html
(Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)
INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)
KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.
(Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)
LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.
NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.
TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.
ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.
CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.
Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”
LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H
LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)
HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.
NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?
THANH THẢOCâu trả lời có vẻ đơn giản: văn học là... văn học. Nhưng trả lời như thế chính là đặt tiếp một câu hỏi, và lại một câu hỏi nữa, mà câu trả lời đâu như còn thấp thoáng ở phía trước.