TRẦN ĐÌNH HƯỢU
Chúng ta đều đã biết sự thay đổi đột ngột trong cách đánh giá Tự Lực văn đoàn.
Một số sách của nhóm Tự lực văn đoàn - Ảnh: internet
Trong việc giảng dạy và nghiên cứu lịch sử văn học nước ta cắt các giai đoạn trung đại, cận đại và hiện đại thành những nhóm việc tách biệt nhau, tạo ra tình hình lịch sử mất tính liên tục. Và Tự Lực văn đoàn thành một hiện tượng chỉ có tính hiện đại chỉ của nhóm hiện đại.
Chúng tôi muốn nhìn hiện tượng đó trong sự phát triển liên tục của lịch sử, trong văn học dân tộc và trong quá trình hiện đại hóa của văn học phương Đông.
1/ Trong vùng Đông Á (trong đó có Việt Nam) quãng giữa hai thế kỷ 19 và 20 có một bước ngoặt cả về kinh tế, xã hội cả về văn học. Văn, thơ, phú, lục theo truyền thống văn học phương đông ngự trị nhiều thế kỷ trong văn đàn đến đây suy vong và được thay thế bằng thơ, kịch, tiểu thuyết, những thể loại văn học theo truyền thống văn học phương Tây. Đó là một sự thay đổi cực lớn, thay đổi tận gốc rễ vì thay thế cả quan niệm văn học, hệ thống thể loại, quan niệm cái đẹp. Nền văn học mới có tác phẩm, tác giả, công chúng khác; có phương tiện truyền bá, đời sống văn học khác nền văn học của nhà nho từ mấy thế kỷ trước.
Tự Lực văn đoàn nằm trong là quá trình ra đời và phát triển của văn học mới. Quá trình đó diễn tiếp theo:
- Sự phát triển của truyện ngắn, tiểu thuyết từ Tản Đà, Hồ Biểu Chánh đến Hoàng Ngọc Phách (theo giáo sư Trần Văn Giàu thì còn trước cả Tản Đà ở miền Nam)
- Sự phát triển của kịch từ Vũ Đình Long.
- Sự phát triển của thơ từ Tản Đà, Phan Khôi, Lê Khánh Đồng đến Thế Lữ.
Những năm 20 là quá trình khẳng định văn học mới và Tự Lực văn đoàn đánh dấu giai đoạn toàn thắng. Đến Tự Lực văn đoàn cái bộ ba thơ, kịch, tiểu thuyết đã thành kiềng ba chân vững chãi, loại trừ bộ bốn văn, thơ, phú, lục ra ngoài. Các loại hình tiểu thuyết ái tình, xã hội, trinh thám, lịch sử... cũng đã tự phân biệt và đúng với tên gọi. Nói theo ngôn ngữ người chơi cờ được chính Tản Đà dùng để nói về nghề viết văn thì đến đây văn học mới ở Việt Nam đã "sạch nước cản". Tự Lực văn đoàn đã góp công nhiều vào việc trau dồi ngôn ngữ văn học và nghệ thuật viết tiểu thuyết và kịch, thơ để có sự chuyển hóa chất lượng từ văn học những năm hai mươi sang văn học những năm ba mươi.
Nói đến Tự Lực văn đoàn và ảnh hưởng của nó ngoài những thành phẩm là sáng tác của các thành viên trong văn đoàn cũng nên chú ý cả việc tổ chức văn đoàn (kết nạp, phân công và bồi dưỡng đoàn viên đến hoạt động báo chí (Phong Hóa, Ngày Nay) đến hoạt động xuất bản (nhà in Đời Nay) của văn đoàn. Sự tập hợp những tài năng thật đa dạng và sự hướng dẫn để những người đó phát triển đúng tài năng của mình đã góp phần cực lớn cho thắng lợi quyết định của văn học mới. Sự giới thiệu những tài năng của văn đoàn cũng góp phần không nhỏ vào sự thắng lợi đó.
Sự đóng góp của tự Tự Lực văn đoàn vào sự thắng lợi của văn học mới (thơ, kịch tiểu thuyết) những năm hai mươi, ba mươi là lớn, chủ động và tích cực. Về mặt đó, các nhà văn hoạt động độc lập hay các nhóm văn học khác không thành công được như vậy, không cống hiến được nhiều như vậy.
2/ Văn học mới (thơ, kịch, tiểu thuyết như một hệ thống thể loại) hình thành ở Việt Nam đầu thế kỷ không phải do sự vận động nội tại, tự thân của văn học Việt Nam, vốn là nền văn học theo truyền thống phương Đông. Nó là vật ngoại lai, cần trải qua một quá trình dân tộc hóa, trở thành cái bản địa.
Trong quan niệm truyền thống về "văn" tương đương với "văn học" ngày nay, văn xuôi không được coi trọng hay nói đúng hơn là được dùng vào những mục đích, cho những thể loại khác với văn xuôi ở phương Tây. Truyện, tiểu thuyết không được coi là thể loại văn học quan trọng. Kịch bản sân khấu không được coi thuộc thành phần văn học. Sự gắn bó "văn" với "đạo" chi phối sâu sắc quan niệm cái đẹp và cách đánh giá về chức năng, về giá trị của thể loại, của tác phẩm. Muốn cho tiểu thuyết và kịch vốn ngoại lai có mặt trong đời sống dân tộc phải làm cho công chúng Việt Nam ưa thích nó, chấp nhận nó. Nó phải có cái đẹp của tiểu thuyết, của kịch mà lại có cái đẹp dân tộc không phải là lai căng, mất gốc. Đầu tiên là văn dịch rồi sau mới có sáng tác, và cũng mất một thời gian, "người dân ngụ cư" ấy mới "vào được làng" (văn) mới thành dân "bản quán". Tiểu thuyết ra đời từ Giấc mộng con (?) đến Tố Tâm mới "trước bạ" xong và đến các tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì chiếm chiếu nhất trong thành phần văn học. Thơ có ảnh hưởng mới cũng từ Tản Đà nhưng cũng đến khi Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận - những nhà thơ trong Tự Lực văn đoàn ra đời Thơ Mới mới là một chân cho cái kiềng văn học hiện đại. Kịch nói là thể loại trước chưa có. Xây dựng trên mảnh đất trống nó không gặp trắc trở nhiều nhưng cũng không có sức phát triển mạnh. Nhưng "giàu vì vợ, sang vì bạn", nó cùng với tiểu thuyết và thơ trước bạ một lúc. Hình ảnh kết hợp bộ ba đó là Tự Lực văn đoàn.
Sự phát triển đầu thế kỉ này không nằm trong qui luật nội tại, không do những động lực nội tại của dân tộc mà do quy luật do động lực của một bước phát triển có tính thời đại của thế giới, của nhân loại: sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa cùng với mặt đối lập với nó là chủ nghĩa xã hội lôi kéo mọi mảnh đất vào quĩ đạo chung. Các nước phương Đông (trong đó có Việt Nam) cũng bị lôi kéo vào quĩ đạo chung của thế giới, của thời đại hiện đại. Sự phát triển của thương nghiệp, của đô thị, của giao lưu văn hóa, sự truyền bá của văn hóa tư sản... làm thay đổi cuộc sống của vùng đất nông thôn rộng lớn là cả phương Đông lúc đó. Trong sự đổi thay như vậy, cái dân tộc cũng không phải là bất biến. Nhưng quan hệ cũ những giá trị cũ cũng phải tự thay đổi để thích ứng với cuộc sống mới mà nét nổi bật là tính đô thị.
Chủ đề văn học của sáng tác Tự Lực văn đoàn là tình yêu, tình yêu của những con người đô thị, của những "chàng" những "nàng" tân thời, học chữ Tây, sống trên phố, hấp thụ văn minh châu Âu, đòi tự do, tự do yêu đương, tự do kết hôn và tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do và hạnh phúc. Họ phủ nhận con người chức năng trong luân thường, con người sống với gia đình, với họ hàng, với làng xã, làm con hiếu, làm tôi trung. Lúc đó con người mà họ đề cao chính là con người mới. Cuộc sống mà họ ca tụng chính là cuộc sống mới.
Lúc đầu họ bị phản đối, phản đối quyết liệt. Bị phản đối không chỉ là nội dung cá nhân, tự do, hạnh phúc hay chuyện yêu đương mà cả hình thức văn học xa lạ với truyền thống. Không ít gia đình cấm con đọc tiểu thuyết và đến năm 1942 khi viết về phong trào Thơ Mới, Hoài Thanh mời Tản Đà về chứng giám vì "Có tiên sinh người ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa thất cước, không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi." Một sự giãn cách với các truyền thống và tìm đến Tản Đà làm chiếc cầu nối. Trong xã hội ta trước đây, đô thị không phát triển. Chưa xuất hiện những lớp thị dân để có cuộc sống, lối sống của họ. Nhưng ở các kinh kỳ, lỵ trấn đô hội - những đô thị phong kiến - nơi những người học trò hỏng thi, những khách thương, những ông quan bị biếm trích sống xa sự ràng buộc của gia đình, của họ hàng, của làng xã, gặp những người đồng cảnh là những kỹ nữ giang hồ cũng đã gắn bó với nhau thành những chuyện tình sử ngoài lễ giáo gây ra những ước mơ về tự do về hạnh phúc cho những nhà nho tài hoa. Một thứ ý thức về cá nhân cũng đã xuất hiện ở họ những "nhà nho tài tử" - thuật ngữ tôi dùng để chỉ loại nhà nho đó, loại nhà nho quý trọng tài, tình, sắc đẹp hơn đạo đức, phúc ấm và công danh, mong ước gặp giai nhân hơn cả gặp minh quân lương tướng. Chính những nhà nho tài tử đó tác giả những ngân khúc chứa chan tình cảm, những truyện nôm tài tử giai nhân ca tụng tình yêu, những bài hát nói ngang tàng phóng túng. Trong những bài viết về Tản Đà tôi đã nhấn mạnh Tản Đà là nhà nho tài tử trong xã hội tư sản. Cho nên văn học mới tìm Tản Đà làm chiếc cầu nối họ với quá khứ. Chắc ai cũng thấy quãng cách giữa Tản Đà và Tự Lực văn đoàn, giữa Giấc mộng con và Nửa chừng xuân, giữa thơ Tản Đà và thơ mới. Quãng cách thật xa, quãng cách giữa hai thời đại, giữa nhà nho và trí thức hiện đại, nhưng họ cũng cùng nói một chuyện: tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi. Và ta có thể đi một mạch từ các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn ngược lên đến Tố Tâm, đến Giấc mộng con, đến Truyện Kiều, đến Hoa Tiên để nhìn sự diễn tiến của vấn đề tình yêu trong lịch sử của tiểu thuyết. Ta thường ca ngợi tinh thần thiết tha với hạnh phúc với tự do, tinh thần chống lễ giáo phong kiến trong truyện nôm, ca tụng một xu hướng nhân đạo chủ nghĩa trong đó. Nhưng thực ra trong mối tình của Dao Tiên và Lương Sinh, giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, lễ giáo chưa hề hiện ra dưới bộ mặt tàn bạo, và tác giả cũng chưa rõ đằng sau số mệnh là những cái gì trói buộc con người: Hạnh phúc lứa đôi thường bị dày vò tan nát hoặc gặp những trở ngại ghê gớm nhưng cũng chưa ai tìm nguyên nhân thể chế xã hội. Cho đến cả Giấc mộng con, Tố Tâm cũng còn là như vậy. Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh gặp nhau nơi đất khách quê người, không gặp ràng buộc gì, lại yêu nhau một cách mộng ảo. Đạm Thủy và Tố Tâm đã yêu nhau say đắm như hai thanh niên thời đại mới. Họ cũng có vướng một trắc trở: Đạm Thủy đã có vợ chưa cưới. Nhưng cả hai gia đình thì cũng không có hành động cản trở nào. Sự hy sinh cao thượng không biểu thị một tinh thần đấu tranh mà chính họ cũng chưa nhìn ra đích và đối tượng để đấu tranh, để bảo vệ tình yêu. Tự Lực văn đoàn lúc đầu cũng nói đến một thứ tình yêu ảo mộng và cao thượng (Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa và cả Nửa chừng xuân nữa) nhưng từ Nửa chừng xuân, Lạnh lùng, Đoạn tuyệt vấn đề xung đột giữa tự do yêu đương, tự do kết hôn với lễ giáo gia đình nổi lên càng ngày càng gay gắt. Tự Lực văn đoàn có ý thức và rất nhất quán trong việc tố cáo sự ràng buộc của gia đình và họ hàng. Nếu nhìn cả việc họ chế riễu Bang Bạnh, Lý Toét, Xã Xệ trên Phong Hóa, trao giải thưởng Tự Lực văn đoàn cho Con trâu, Làm lẽ, Năm vạ (?) và cách nói đến cảnh tối tăm của những người dân quê thì thế không phải là họ chỉ nói chuyện yêu đương "chàng" và "nàng" mà đặt ra cả những vấn đề của thực tế xã hội khá tiêu biểu. Chắc chắn họ không am hiểu việc làng bằng Ngô Tất Tố, không am hiểu phố huyện bằng Nguyễn Công Hoan, nhưng những vấn đề họ đặt ra không phải vô can, vô bổ, không phải xa thực tế.
Quả thật Tự Lực văn đoàn nhìn xã hội Việt Nam với tính phương đông của nó chưa thật rõ ràng, chưa thật sâu sắc. Chủ trương cải tạo của họ lại nhìn từ góc độ giải phóng cá nhân, hay có hơn một chút là cải cách xã hội mà không thấy yêu cầu cách mạng chính trị và kinh tế. Cho nên về sau họ đi theo khuynh hướng đạo đức, tôn giáo kiểu Tôn-stôi (Gia đình, Con đường sáng) và khi nhảy vào hoạt động chính trị thì phiêu lưu sai lầm, phản động. Nhưng so với các nhà văn những năm 30, 40 trước Cách mạng tháng Tám chính họ là nhóm có ý thức cải tạo xã hội, muốn đổi mới xã hội. Vì lẽ đó, thanh niên thời bấy giờ - tôi nói những thanh niên có học, chán cuộc sống tối tăm, tù túng, muốn tiến bộ mà chưa tìm ra con đường giải phóng dân tộc và chủ nghĩa cộng sản - hoan nghênh Tự Lực văn đoàn. Rất nhiều người trong họ sau Cách mạng tháng Tám đi với Đảng rất thanh thoát. Để nhìn Tự Lực văn đoàn cho đúng có lẽ cũng không nên coi thường thực tế đó.
3/ Trong công tác phê bình văn học của ta, ta quen quan tâm đến vấn đề đánh giá, nói sao cho đúng lập trường cho vừa phải, cho có tình có lý mà ít quan tâm tìm hiểu thực tế, ta quen phê bình hơn. Ta phê bình cái hiện hữu mà ít chú ý đến tính cụ thể lịch sử, nhiều khi cái chuẩn để phê bình của ta lại quá hạn hẹp. Đầu tiên là ta khẳng định quan hệ giữa văn học và chính trị, nhấn mạnh chức năng tuyên truyền của văn học nghệ thuật. Tiếp đó là xác lập tiêu chuẩn yêu nước, tính nhân dân, phục vụ công, nông, binh. Tiến lên một bước nữa ta đi sâu vào chức năng phản ánh, tính giai cấp, tính Đảng, chủ nghĩa hiện thực trong văn học... So với hiểu biết và trình độ nghiên cứu, phê bình văn học trước đây, ba mươi năm qua chúng ta đã tiến một bước dài về mặt khoa học. Những cơ sở lý luận văn học ta vừa nói, chắc không phải sai lầm nhưng hình như chưa được toàn diện, và phần chắc cũng còn do cách giải thích nó một cách sơ lược, đơn giản nên gây ra những nhược điểm.
- Thiên về nhìn văn học như là phản ảnh bị động của hiện thực, là lời phát ngôn về chính trị theo lập trường giai cấp. Hiện thực tức cuộc sống cũng thường bị nhìn sơ lược thành cơ sở kinh tế - xã hội, thành quan hệ đấu tranh giai cấp...
- Không bao quát được trong cách nhìn văn học như vậy con đường đa dạng và vô hạn của việc tìm cái đẹp nghệ thuật của từng dân tộc và của cả nhân loại. Thường là chúng ta không quan tâm, thậm chí là không chấp nhận cái Việt Nam nói chung, cái con đường nói chung. Mà những cái đó nhiều khi lại là những giá trị lớn của tác phẩm.
Tôi không có tham vọng bàn về lý luận, con đường nhiều khúc khuỷu dễ sa chân. Tôi muốn trở lại với vấn đề đang bàn. Trong cách phê bình Tự Lực văn đoàn của ta thường ít chú ý sự tìm kiếm về nghệ thuật của họ. Trước hết là nghệ thuật viết tiểu thuyết, viết kịch, làm thơ, nghệ thuật ngôn ngữ văn xuôi. Theo hướng đi sâu vào tâm lý và cả vào cuộc sống xã hội cùng với ý thức trau dồi văn xuôi văn học, tiểu thuyết và kịch của Tự Lực văn đoàn quả đã là chững chạc và có nghệ thuật cao hơn các nhà văn đương thời. Tôi nói điều đó và nhắc lại tiểu thuyết và kịch là hai thể loại văn học mới du nhập vào đời sống văn học của ta. Thứ hai là tìm về cái đẹp dân tộc. Tiểu thuyết và kịch đi vào đời sống văn học ở ta đầu tiên là những tác phẩm diễn nôm không Tây thì cũng Tàu. Người ta thích nó vì nó là kịch, là tiểu thuyết, một loại hình văn học mới lạ chứ nội dung cuộc sống và tâm hồn con người rong đó thì xa lạ. Tố Tâm được hoan nghênh nhiệt liệt, theo tôi, một phần là do thành công đầu tiên về tiểu thuyết và một phần nữa là do tính Việt Nam của các nhân vật trong đó từ Đạm Thủy, Tố Tâm cho đến bá Án, cậu Tân... Tự Lực văn đoàn rất có ý thức đi tìm cái đẹp. Họ không hướng vào tìm cái đẹp trong truyền thống nhưng họ tìm được không trái, không xa lạ và được chấp nhận, ở đây có vấn đề tính đô thị.
Ta quá quen suy nghĩ trong sự đối lập giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa tư sản với vô sản và trong điều kiện một thực tế XHCN nông thôn, xây dựng với người nông dân nên dễ kỳ thị với những cái có tính đô thị. Ta không thấy con đường của những nước nông nghiệp lạc hậu như các nước phương Đông (trong đó có Việt Nam) đi lên hiện đại - mà chủ nghĩa xã hội cũng là một con đường hiện đại hóa - tất yếu phải trải qua một quá trình đô thị hóa. Đô thị hóa không phải chỉ có xây dựng công nghiệp mà còn phải xây dựng cả một nền văn hóa, những cách sống những mẫu người... đô thị. Tôi nói điều đó không phải để khẳng định Tự Lực văn đoàn, càng không phải khẳng định nó toàn bộ. Tự Lực văn đoàn chế riễu cuộc sống gia đình, họ hàng, chế riễu những ông xã, ông lý và cả người dân quê nơi nông thôn bùn lầy nước đọng và đưa ra những mẫu người, những lối sống ở thành phố theo cách Âu hóa. Trong Thi nhân Việt Nam, khi nói về Xuân Diệu, một nhà thơ trong Tự Lực văn đoàn và có dáng vẻ Tây nhất, Hoài Thanh viết: "Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng". Tự Lực văn đoàn đô thị hóa, Âu hóa có mới mẻ, xa lạ nhưng không phải không dân tộc. Cái đẹp trong văn chương Tự Lực văn đoàn là Việt Nam chứ không phải Tàu, không phải Tây. Vì kỳ thị với cái của thành phố chúng ta dè bỉu, ra sức xóa bỏ cái "đô thị" kể cả cái đô thị mang màu sắc Việt Nam - tôi muốn nói đến cái nhẹ nhàng, duyên dáng, tế nhị có phần nào kiểu cách - không chất phác giản dị và suồng sã như nông dân - nên ngày nay khi cuộc sống đô thị hóa, tiếp xúc với phương Tây, nhiều người lại trả lại sùng ngoại, bắt chước những cái kệch cỡm một cách thiếu văn hóa, thiếu bản lĩnh dân tộc. Cách nghĩ theo cách nông thôn, nông dân của ta còn gây ra ở nhiều mặt khác những tác hại còn lớn hơn là đánh giá sai Tự Lực văn đoàn.
Lâu nay tôi không theo dõi vấn đề nghiên cứu Tự Lực văn đoàn. Tôi cũng chưa có thì giờ đọc lại nhiều tư liệu. Vì lẽ đó tôi không dám viết một báo cáo khoa học. Trong lời phát biểu ý kiến của mình tôi muốn nhấn mạnh một điểm: nhìn Tự Lực văn đoàn trong sự phát triển có tính liên tục của lịch sử. Tôi muốn lưu ý các bạn là văn học Việt Nam từ thế kỷ XIX trở về trước là một nền văn hóa có tính chất vùng (vùng Đông Nam Á). Từ đầu thế kỷ XX cho đến nay nó đã gia nhập vào cuộc vận động chung của văn học thế giới. Cho nên ngoài cách nhìn nó cô lập như một hiện tượng hoàn toàn dân tộc, chia nó ra văn học 1900 - 1930, văn học 1930 - 1945, văn học 1945 - 1975... theo lịch sử dân tộc thì còn có một cách nhìn khác nhìn nó từng bước rời bỏ truyền thống để hiện đại hóa. Nhiều vấn đề mới phải đặt ra và nhiều vấn đề đã đặt ra phải nhìn lại theo cách khác. Tự Lực văn đoàn là một hiện tượng phải nhìn - hay phải nhìn thêm - theo cách khác như vậy. Nhìn thêm từ một góc độ khác chắc chắn chúng ta sẽ hiểu hiện tượng rõ hơn. Vấn đề đặt ra là phải hoàn thiện lý luận văn học, làm cho nó thích dụng với sự phát triển cực đa dạng của văn học trong các vùng trong các thời đại và ở đây là thích dụng với quá trình thực tế văn học phương Đông đi vào thế giới hiện đại. Hiển nhiên là việc đồng nhất chính trị và văn học, coi Tự Lực văn đoàn chỉ là Nguyễn Tường Nam, Nguyễn Tường Long, Trần Khánh Giư, các lãnh tụ chính trị chống cách mạng mà không bàn hoạt động văn học của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng và cả nhiều người khác như Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân Diệu, Huy Cận... cũng ở trong Tự Lực văn đoàn đã làm chúng ta nhìn không đúng, không rõ hiện tượng văn học đó. Nhưng nếu chúng ta không sai lầm ở chỗ đó, một sai lầm, theo tôi là phản ánh trình độ nhận thức chung trong những điều kiện thực tế nhất định, thì liệu chúng ta đã có thể yên tâm với cái công cụ mà ta có khi đi vào xử lý các hiện tượng phức tạp khác trong lịch sử trước kia và cả trong tương lai? Một công cụ dầu tốt đến đâu cũng có những khuyết tật, những chỗ sử dụng không có hiệu quả. Người sử dụng công cụ phải biết đối tượng và phải biết điều chỉnh công cụ cho thích hợp với đối tượng. Khi đi vào văn học phương Đông thì công cụ lý luận văn học mà chúng ta đang sử dụng phải chăng cũng cần đến một sự điều chỉnh?
T.Đ.H
(TCSH50/07&8-1992)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.