HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).
Tập thơ in khổ lớn, trình bày trang nhã, bìa là ảnh tác giả đứng nhìn sang làng Chuồn (làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế) từ bên kia sông Như Ý. Đó là quê hương và tuổi thơ Từ Hoài Tấn, nơi chỉ cách thành phố Huế tám cây số theo quốc lộ 49 qua cầu Vỹ Dạ mà như một thế giới riêng biệt được phản chiếu trong thơ ông.
Buổi sáng Sài Gòn cuối năm, nắng mật ong ánh vàng trước tượng Đức Mẹ Hòa Bình, chim bồ câu vui đùa mổ thóc trong nhịp chuông nhà thờ; nghe những kỷ niệm về đường đời và đường thơ Từ Hoài Tấn được gợi lại, bỗng thấy thơ ông như đan kết không - thời gian những phút giao mùa mà một tâm hồn trôi dạt giữa gió bụi còn giữ lại trong ngôn từ.
Phục hưng tuổi trẻ
Những bài thơ làm thời tuổi trẻ của Từ Hoài Tấn đã đăng rải rác trên báo chí miền Nam trước 1975 hay lưu truyền trong vòng thân hữu, được tập hợp trong Phục hưng tôi và em (2013) sau khi đã in Hành tinh phiêu lạc (2003), Đi, đứng và chạy… với thời gian (2012) gồm những tác phẩm của “một thời thất lạc”.
Làng Chuồn nổi tiếng rượu ngon và con người cứng cỏi; còn thơ Từ Hoài Tấn thời trẻ chỉ có hơi rượu nhẹ và giọng thơ dịu mềm như thoáng tình đầu: Em đã sắp về chưa/ Trên những nhánh cây khô cuối mùa héo úa/ Và có ai đi dưới con đường nhạt nhòa/ Hơi thở kín trong lòng tay buốt/ Hỡi ngày mai của một rạng đông/ Nụ cười phơi trên giàn hoa gạo cũ/ Người cười vui con mắt long đong/ Ấm lòng ta những canh khuya lặng lẽ.// Em đã sắp về chưa/ Những ngày tháng mười hai nhịp mùa trở đổi/ Gió không ngừng reo/ Bên kia núi đồi/ Băng qua những dòng sông/ Những cây cầu/ Và những chia cách của lòng người/ Gió thổi tới/ Xóa nhòa khuôn mặt thù hận của đêm tối/ Và gió thổi tới/ Bước chân em/ Từ nghìn trùng xa biệt. (Những buổi chiều cuối năm ngoài đường).
Hồn thơ Từ Hoài Tấn nhạy cảm với những chuyến xe chiều cuối năm, những ngày sắp tàn khi ngoài phố mùa đông trôi đi những bóng người lặng lẽ: Những ngày sắp hết năm tàn nữa/ Một bóng người qua lặng lẽ buồn/ Sông núi mười thu chờ tiếng bước/ Nhẹ lướt qua đời những bến sương (Những ngày cuối năm); Ngày đã vơi với tiếng cười buồn/ Thu mình ngồi trong khoang xe chật/ Ai hát bên đời nghe tang thương/ Chiều mới hết hoàng hôn xô mãi/ Những tiếng đàn trầm hư không. (Buổi chiều cuối năm trên một chuyến xe buýt).
Thơ Từ Hoài Tấn là thơ của “những đêm chờ bình minh”. Chỉ dấu tâm hồn này có thể thấy trong thơ của một thế hệ đương thời. Dưới ngòi bút Từ Hoài Tấn, hình ảnh “thời đại tật nguyền”, “đầy dẫy những vết tích hoang phế”, “vực thẳm”, kết tụ trong những cảnh tượng dữ dội của chiến tranh: Năm năm tôi mơ một mái nhà/ […] Ta đi hai bên những gọng kềm/ Những con mắt là lưỡi đao tàn ngược/ Tên đao phủ mỗi ngày thoáng bóng qua đêm/ Những lời hô từng giờ, từng phút. (Trên đường tới một mái nhà).
Đối lập với những hình ảnh đó là viễn cảnh về một ngày mai hy vọng với, “những khu vườn rực rỡ, cây trái tái sinh”, “những búp non báo hiệu”, “hừng đông rựng sáng”, “nắng mai hồng trên cánh đồng thơm”, “tiếng chim trắng bay về ngoài vuông cửa”, “gió hiền hòa không ngừng thổi tới”. Nhưng nỗi “hoài vọng rạng đông” ấy chỉ gieo lên niềm tin mơ hồ về một “mùa phục hưng” ảo tượng. Tháng chạp kéo dài thành những câu thơ u uẩn mà tháng giêng và mùa xuân chập chờn đâu đó chưa hiển lộ: Trời đã cuối năm đất trở mình/ Những canh khuya nghe trong lòng tôi/ Lời chim khuyên thức dậy/ Đời đã lên men/ Rượu tình ai đã rót/ Nhấp chén tương tri/ Của một người cuối đời trở lại. (Tình khúc cuối năm trên gác xép).
Đất trời, cỏ cây và tình nhân như hòa cùng tiên cảm với nhà thơ về một nỗi niềm không xác định của đời sống: Sách vở em buồn trong ngăn kéo/ Những ngày hoa báo hiệu mùa xuân/ Tôi thu nhặt lại năm tàn cũ/ Gửi gió sông hồ bay mênh mang (Những ngày cuối năm).
Xa Huế, ra đi bốn phương trời, trở về Huế, rồi lại lang bạt, những câu thơ hay nhất của Từ Hoài Tấn thời trẻ, dù không gọi tên, vẫn mang âm hưởng cố đô. Lãng đãng, bàng bạc trong không gian. Dằng dặc, ngập ngừng trong thời gian. Tính cấu trúc chỉ nhận ra được nhờ giọng điệu và điệp ngữ: Những chiều thở không ra hơi/ Đầm đìa cơn mê sảng/ Linh hồn động kinh/ .../ Nhìn lên dãy hành lang của trường đại học/ Bây giờ còn tiếng chân ai lướt nhẹ xa xăm/ Mười năm nữa ai sẽ dắt nhau qua đây/ Hát một bài nuối tiếc/ Mười năm nữa mây trên núi cao sẽ còn bay về/ Xin nở đóa hoa hoài niệm/ Và mười năm tôi dưới đường heo hút/ Tóc trắng chờ mong/ Mà những cánh chim đen không thôi lượn quanh mùa bão tố. (Những cánh chim mùa bão tố).
Mong đợi một ngày trở về, giã từ những chuyến phiêu linh không định hướng, nhưng thời cuộc lại bắt buộc nhà thơ giang hồ một lần nữa với con đò và mái chèo lang thang một vùng sông rạch miền Nam.
Gió bụi giang hồ
Từ Hoài Tấn xa gia đình từ nhỏ, gia đình ông cũng rời quê hương từ sớm, lúc đi tản cư, lúc tìm đường lập nghiệp. Thời chiến, ông đã đặt chân đến Nam Bộ nhưng âm sắc miền này chưa đậm trong thơ ông. Phải đến ngày hòa bình, số phận đun đẩy ông tìm kế sinh nhai suốt 15 năm ở miền Tây. Trong “Khúc dạo đầu” tập thơ Bản tình ca của gió bụi (2018), Từ Hoài Tấn bộc bạch: “Đầu tiên tập thơ này được đặt tên Nhật ký của bể dâu, ghi dấu những năm giang hồ vùng bưng biền sông nước của tỉnh Long An. Từ những đồng bưng mênh mông Đồng Tháp Mười vùng Đức Huệ - Mộc Hóa đến sông nước hai con sông Vàm Cỏ Đông - Vàm Cỏ Tây với những cánh đồng trồng thơm và tràm bông vàng bên những con kinh xáng múc ở các khu kinh tế mới Củ Chi, tôi đã phiêu dạt nhiều năm với chiếc ghe bầu hai tấn rưỡi.”
Tất bật với cuộc mưu sinh, thời gian này chắc Từ Hoài Tấn viết không nhiều, được in lại càng ít; nhưng 15 năm gió bụi đó còn ám ảnh những câu thơ ông qua hình ảnh rượu nhòa trong nước mắt một người đàn ông sầu cố xứ: Ai hay lữ khách chiều tê tái/ Nhỏ giọt lệ hoài rượu cố hương/ Nhớ con sông cũ chiều xa ngái/ Đêm dài mưa ngập cả mùa đông. (Chiều cuối năm đứng bên bờ sông Vàm Cỏ).
Về với sông nước miền Tây là một cách nhà thơ giã từ khung trời quá vãng, chia tay những năm ảo mộng, tìm cách làm khác mình theo cái khác trong cuộc xoay vần của thời đại: tìm ra sông lớn băng qua rạch gần/ chiếc xuồng trôi cùng nỗi tự do/ thênh thang vùng sông nước/ tôi vừa ra khỏi cuộc xoay vần/ tìm niềm cô đơn vui cùng lau lách/ tôi sống xa cách những ngày tháng vết hằn đau quá vãng/ thời tuổi trẻ sương mù/ cùng em bơi trong bể cạn/ tôi sống đùa vui sông nước miền Tây… (Sông nước miền Tây).
Trong hai tập Mấy khúc đoạn giang hồ (2016) và Bản tình ca của gió bụi nói trên, có nhiều bài thơ viết vào chiều cuối năm, ngày giáp Tết, đêm ba mươi với giọng điệu u hoài. Nhưng thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa từ ngoại cảnh vào tâm cảnh của một người tha phương cam chịu tìm nơi nương náu giữa cõi đời phiền nhiễu: Xứ sở cuộc đời tôi/ Hoa tràm vàng nội cỏ/ Bông bàng phấn bụi bay/ Không có núi và đồi/ Không có rừng và biển/ Nhưng có em và con/ Có cha già em nhỏ/ Hương và mật ngàn năm/ Sớm và chiều lan tỏa/ Nhiều năm qua dịu dàng/ Thả cánh chim gió lộng/ Rộng đường bay tháng năm/ Nhiều năm qua như thế/ Cơn gió mát bên lòng. (Những ngày sống ở Bình Thành).
Có thể nói những ngày gian nan làm lưu dân bên bờ sông Vàm Cỏ đã thêm sức cho Từ Hoài Tấn trụ lại với cuộc đời và thêm sức cho thơ Từ Hoài Tấn đến với mọi người.
Sài Gòn gọi về
Thật ra, từ sâu kín, Từ Hoài Tấn vẫn mang hồn thơ thị dân. Khung cảnh thường gặp trong thơ ông là những chuyến xe, những quán cà phê, những cuộc tụ hội bạn bè phố xá. Thời chiến, bảy năm ông lui tới Sài Gòn: Nơi tôi sống, căn gác cao nhìn ra ngoại ô/ Những ánh đèn vàng của đêm hiu quạnh/ Ở bên kia ngôi nhà thờ/ Gác chuông không bao giờ rung tiếng/ Ngoài tiếng rít trên đường ray vào lúc hoàng hôn/ Chuyến xe lửa cuối cùng của một ngày đã hết. (Hẻm 332 Phú Nhuận).
Sau những năm trôi dạt miền Tây, ông tìm về thành phố này như chỗ an trú dài lâu. Sài Gòn có thể là chỗ nghỉ chân sau tháng ngày phiêu lãng, nhưng không hẳn là chỗ để người ta thảnh thơi, dù mỗi sáng vẫn ngồi nơi quán nhỏ góc phố đó, nhìn ra con kênh nước lững lờ trôi đó. Những suy nghĩ năm nào giờ trở lại, không phải để giết chết niềm hy vọng, mà để giúp bình tâm trước số phận: Cuộc sống chúng ta ví như ngôi nhà lớn/ Với nhiều cánh cửa/ Những khung cửa chật hẹp để chui vào/ Ta đã thu thân người bao nhiêu năm/ Vẫn lang thang ngoài hư vọng.// Thời gian không có lấy một giây/ Thấy đời sống có ý nghĩa/ Không có lấy một chỗ/ Để gối đầu tạm nghỉ/ Ta vẫn lang thang ngoài trái đất. (Khúc hoài đêm ba mươi tết).
Sài Gòn dù đổi mới bao nhiêu cũng chỉ nuôi dưỡng những niềm vui thoáng chốc mà không phục sinh được tình yêu và ước vọng tuổi trẻ: có một tấm lòng ước vọng trinh nguyên/ như tuổi xanh như chồi biếc/ tôi sẽ không dậy lớn với thời gian/ sẽ không thành lá xanh trên ngọn/ để cuối con đường vật vã biệt tăm (Sài Gòn, mùa xuân).
Thơ Từ Hoài Tấn viết ở Sài Gòn sau này có nhiều chất nghĩ hòa trong chất cảm. Nghĩ trong âm thầm đêm sâu. Nghĩ giữa sáng mai trên vỉa hè lát đá. Nghĩ trong cơn mưa chiều tháng sáu. Nghĩ khi đạp xe ra ngoại ô. Dưới áp lực của tuổi đời và thời cuộc, đến một lúc nào đó người ta chỉ biết nghĩ gì thay cho làm gì. Và cái nghĩ của nhà thơ là cái nghĩ trong ngày thường giữa một “khí hậu không bình thường”, đôi khi tự trào như một người “bám víu vào những giấc mơ cuối mùa huyễn hoặc”.
Nhưng lẽ nào đã vượt qua ngần ấy biến động của hoàn cảnh để có thể bình thản trước bước đi của thời gian, thơ đã không mang trong sâu thẳm một niềm can đảm?
H.N.P
(TCSH375/05-2020)
..........................................................
(*) Từ Hoài Tấn sinh ở Huế, hiện sống tại thành phố Hồ Chí Minh, sáng tác từ 1964. Tác phẩm đã xuất bản: Hành tinh phiêu lạc (Nxb. Thuận Hóa, 2003); Đi, đứng và chạy… với thời gian (Nxb. Hội Nhà văn, 2012); Phục hưng tôi và em (Nxb. Hội Nhà văn, 2013); Đạp xe ra ngoại ô (Nxb. Hội Nhà văn, 2018); Thơ Từ Hoài Tấn (Nxb. Tổng Hợp Tp. HCM, 2020), v.v.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!