Từ cầm quân đến cầm bút

10:33 21/06/2009
ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

Tác giả đã nhận ra điều này "khi viết hồi ức, hầu như Đại tướng Giáp không quên ai, công lao của ai, ý kiến của ai..." (tr.27). "Ai" đây không dừng lại ở kẻ cầm quyền, kẻ cầm quân, mà còn có những người cầm bút. Bài này chỉ đưa ra một khía cạnh nhỏ: tấm lòng với văn nghệ và phong cách văn học của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong bài tôi mạn ghép gọi tắt là Tướng Giáp cho gọn nhẹ.

Trước tiên, ông ghi phần đóng góp của văn học vào "thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Với nền văn hoá mới, văn nghệ sĩ trở thành chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn học nghệ thuật, trực tiếp góp phần vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do (...), với những phương tiện cực kỳ eo hẹp, những tờ báo tường, báo in đá, tạp chí, truyện in với số lượng ít trên giấy giang, những bản nhạc chép tay, truyền miệng... văn nghệ kháng chiến vẫn có mặt trên khắp nẻo đường kháng chiến. Văn hoá, văn nghệ kháng chiến đã có những cống hiến to lớn trong suốt ba mươi năm chiến tranh" (VNG.I.tr.302).

Những lời như thế, chúng ta đã từng nghe nhiều lần, nơi này hay nơi khác. Nhưng ở miệng đại tướng, âm vang bỗng khác: vì ông không phải là người đãi bôi, và ở địa vị, tư thế, tuổi tác ông, không việc gì phải đãi bôi. Hơn nữa nhiều chi tiết trong hồi ức chứng tỏ ông có quan tâm thật sự đến văn nghệ.

Chi tiết thứ nhất là chuyện nhà văn Nguyễn Tuân đánh trống thúc quân trong trận Đại Bục, giữa 1949. Câu chuyện gần như là huyền thoại trong thời chống Pháp: trong chiến tranh hiện đại, giữa thế kỷ XX, sao lại có chiêng trống, và người đánh trống là Nguyễn Tuân, nhà văn đã nổi danh về tiếng trống cô đầu của Hà Nội dăm ba năm về trước. Từ tiếng tom chát giữa son phấn lụa là đến tiếng trống xuất quân giữa lửa đạn, xã hội Việt Nam đã lật một trang sử, qua cuộc đời Nguyễn Tuân.

"Trong trận này, đơn vị mang theo một chiếc trống. Tiểu đoàn trưởng hạ lệnh nổi trống cho bộ đội xung phong. Nhà văn Nguyễn Tuân cùng ra trận với đơn vị, đứng cạnh tiểu đoàn trưởng, vội giành lấy đùi để đánh trống" (VNG I,tr.338).

Nguyễn Tuân cũng đã kể lại chuyện này, trong Tuỳ Bút Kháng Chiến, bằng ngôn ngữ nghệ thuật: "Thì trống. Trống đâu? Những hồi trống ngũ liên ầm ầm như thuỷ triều dâng lên mặt đê... Tiếng trống cái đang cuộn dần lũ giặc từ đồi A xuống đồi B. Tiếng trống dâng nước rung đến đâu, lưỡi mác xung xích dâng cao đến đấy. Tôi vớ luôn một cành khô nện vào một mặt trống nữa. Trống kêu cả hai mặt. Trống kêu to lên nữa. Kêu thế chưa đủ, kêu to cho bõ lúc đêm qua hành quân...Tôi cuống quít bên tang trống. Vậy ra giờ ta đánh đồn, có cả kèn cả trống (...) Hàng rào cháy rồi anh em ơi... Chúng tôi đang mơ chung một cơn hoả mộng. Hoả thiêu Đại Bục. Kích bích giữa rừng khô".

Câu văn mang phong cách đặc biệt Nguyễn Tuân, thời đó, đã có người lên án... Nay Tướng Giáp nhắc lại chuyện cũ, cũng là cách "hoá giải" cho Tuỳ Bút Kháng Chiến. Nhà văn Hồ Phương, có mặt giai đoạn này, có kể lại chuyện đúng như thế, và ghi nhận: "trong hoàn cảnh chiến đấu lúc ấy, giữa anh em văn nghệ sĩ và chiến sĩ có sự gắn bó rất thân thiết. Những người lính cảm thấy phấn khởi, tự hào khi biết có nhà văn đang bước trong đội ngũ của mình". Chuyến ấy, cùng đi với Nguyễn Tuân theo tiểu đoàn 54 dự chiến dịch Sông Thao, còn có Tô Hoài. Anh kể lại rằng cái trống lấy từ nhà chánh tổng, và sau chiến thắng, các vị anh hùng và nghệ sĩ đã mừng nhau bằng "thùng rượu vang to bằng cái vại sành bên gốc cau... Chiếc dùi trống thò một đầu trên ba-lô Nguyễn Tuân". Một tác phẩm Nguyễn Tuân thời đó, 1949, mang tên Đường Vui.

Tiểu đoàn trưởng lúc ấy là Vũ Lăng. Tham gia chiến dịch có Xuân Trường, con trai cả của Nguyễn Tuân; Hồ Phương, nhà văn, tác giả Thư Nhà; Chính Hữu, nhà thơ, tác giả Ngày Về. Cả bốn vị ngày nay đều lên cấp tướng.

Một ví dụ khác về thịnh tình của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp với văn nghệ là đã ân cần trích dẫn: "Một người chiến sĩ tài hoa trong đoàn quân Tây Tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng, đã có những câu thơ:

            Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
            Quân xanh màu lá dữ oai hùm
            Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
            Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
                                               
(VNG I, tr.233)

Bài Tây Tiến, Quang Dũng làm tại Phù Lưu Chanh, năm 1948, sau khi đơn vị Tây Tiến đã giải thể. Bài thơ đăng trên báo Văn Nghệ, Việt Bắc, số 11 và 12 tháng 4-5/1949, được nhiều người yêu thích và truyền tụng, Xuân Diệu có lần ngợi khen trên báo Độc Lập.

Nhưng sau đó, bài thơ bị lên án, như lời Tố Hữu: "Sơn La gái đẹp, Sông Mã, cọp gầm" và xếp vào loại "chủ nghĩa cá nhân nhuộm màu tư sản sa đọa". Đoạn thơ bị phê phán nhiều nhất, chính là 4 câu mà Tướng Giáp đã ân cần trích dẫn, và còn nhắc lại trong cuốn hồi ức tiếp theo (VNG II, tr,376). Câu chuyện không dừng lại trong phạm vi văn học: ông đại tướng không có thẩm quyền gì trong việc phê phán văn học; sự nghiệp trước tác của Quang Dũng (1921-1988) cũng không trông cậy gì vào sự chiếu cố của Đại tướng. Nhưng tướng Giáp tạo được bằng an cho tâm thế đám quân binh mà ông lãnh đạo: họ là những chiến sĩ, nhiều người đã lên cấp tướng, đã từng yêu mến bài thơ Tây Tiến, vẫn thường ngâm nga với nhau để nhớ cái thuở Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Đối với nhiều người, đó là mối tình đầu với văn nghệ. Nay được biết Đại tướng cũng thông cảm với những "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", là họ vui. Niềm vui hiếm hoi, ẩn nhẫn, thầm lặng ở những buổi chiều già, những buổi chiều không tuổi và vô tội.

Câu chuyện thứ ba chứng tỏ chân tình của Tướng Giáp với văn nghệ là cái chết của Trần Đăng, cuối năm 1949, trên lãnh thổ Trung Quốc. Nhà văn làm gì mà hy sinh bên ấy? Trong hồi ký Chuyện Cũ Hà Nội, Tô Hoài có kể lại nhưng cũng chỉ theo lời người khác. Nay Tướng Giáp cho biết cặn kẽ: đây là chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, từ đầu tháng 6-1949, bộ đội Việt Nam, do tướng Lê Quảng Ba chỉ huy, phối hợp với Hồng Quân Trung Quốc, đánh nhau với quân Tưởng Giới Thạch.

"Một số cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đã vĩnh viễn nằm lại trên đất Trung Quốc trong thời gian làm nhiệm vụ quốc tế này. Nhà văn quân đội Trần Đăng, một cây bút rất nhiều triển vọng, sau khi từ chiến dịch Sông Thao trở về, hăng hái đi tiếp lên đường số 4 cùng bộ đội qua biên giới làm nhiệm vụ, đã hy sinh trong một trận đụng độ với quân Tưởng" (VNG I,tr.349).

Trần Đăng (1921-1949) là nhà văn quân đội đầu tiên hy sinh trên chiến trường, mà không chết trên đất nước. Có lẽ vì vậy mà Tướng Giáp có niềm ưu ái riêng: ông còn nhắc lại một lần nữa trong cuốn sau (VNG II, tra.25).

Dường như ông cũng có thịnh tình với Nguyễn Huy Tưởng khi nhắc đến chuyến đi thị sát mặt trận Cao Bằng (VNG II, tr.25); và không quên những bản nhạc thường nghe trên đường hành quân: Bông Lau rừng xanh pha máu... Sông Lô sóng ngàn kháng chiến... dĩ nhiên vì nội dung chiến đấu.

Nhưng kỳ diệu là giữa trận mạc, ông vẫn lắng nghe một tiếng đàn. Như ở chiến dịch Đông Khê, 1950:

"Nhẩm tính đã mười một đêm không ngủ, nhiều đêm ngồi trên lưng ngựa. Những ngày chiến dịch khẩn trương kéo dài suốt ba tháng đã qua... Chợt nghe từ một bản nhỏ bên đường vẳng ra tiếng đàn. Tôi ngỡ ngàng cứ như lần đầu nghe thấy những âm thanh này. Nhưng âm thanh thật kỳ lạ. Những mệt mỏi tiêu tan, đầu óc trở nên trong suốt (...) Cũng từ đó tôi yêu âm nhạc" (VNG II, tr96). Sau đó Đại tướng đã cho mời người chiến sĩ trẻ chơi ghi-ta đến, rồi "bảo văn phòng tạm ngừng liên lạc điện đài với các nơi trong một giờ, cùng nhau ngồi nghe âm nhạc" (tr.96).

Giữa mặt trận Điện Biên Phủ cam go, Đại tướng vẫn lưu tâm đến mùi hương một khóm lan rừng: "Những cây lan rừng nở hoa không rực rỡ nhưng có một mùi hương đặc biệt, khi thì thoang thoảng đến bất chợt, chú ý tìm không thấy, khi thì nồng nàn" (VNG II, tr.149). Có khi những đoá hoa không tìm, cũng hiện ra tươi tắn: ấy là dù của đối phương còn lại trên mặt trận.

"Cánh đồng Mường Thanh chạy dài tít tắp đến chân dãy núi phía nam. Cơn mưa thép đã tạnh; cánh đồng phẳng lặng trang điểm những chiếc dù màu sắc rất tươi, như nở đầy hoa. Xa xa, trên đỉnh núi ở biên giới Việt Lào, những đám mây trắng êm đềm kéo nhau đi" (VNG III, tr.339). Trong câu văn, hình ảnh đặc sắc, bất ngờ là "cơn mưa thép đã tạnh"; hay ở chữ tạnh. Các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp ít khi đạt tới một ẩn dụ bình dị và sắc cạnh như vậy.

Một câu hỏi đến tự nhiên với người đọc: Đại tướng có làm thơ không? Ông có ghi lại đoạn thơ làm năm 1948, tiễn những đoàn quân lên Tây Bắc gian lao tiếp tục công tác Tây Tiến:

            Sông Đà, sông Mã uốn dòng
            Ghềnh rêu, thác bạc ghi công anh hào
            Con vàn tung cánh bay cao
            Ngọn cờ chỉ hướng, ngôi sao dẫn đường

Câu thơ ghi lại những địa danh trong thiên nhiên hiểm trở, lạ nước lạ người. Con vàn là tên địa phương của một loài chim, loài vạc, ở đây tạo được một âm hao hoang dã, vang xa trên rừng cao núi thẳm.

Ấy là những nét tâm hồn Đại tướng. Tâm hồn ấy mở rộng về phía văn học nghệ thuật âu cũng không lấy gì làm ngạc nhiên. Tuy nhiên, khi Tướng Giáp gợi lại một chuyện văn nghệ nào đó, thì thường gửi gắm thêm chút niềm riêng, người đọc nắm rõ tình cảnh mới thấu triệt sâu sắc những cảm nghĩ thâm trầm, tế nhị của tác giả. Nhưng đọc qua loa, biết qua loa cũng lý thú.

Ghi nhận cuối cùng: câu văn trong Hồi ức rất hay, dĩ nhiên là có công của người ghi chép và biên tập, chủ yếu là Hữu Mai, cuốn cuối cùng do Phạm Chí Nhân thể hiện.

Đọc 1700 trang quân sử, người đọc có ngán mà không chán. Nhờ người kể biết xen kẽ kỷ niệm và giọng kể. Nói chung là câu văn mềm mại, lưu loát, trong sáng. Nghiêm nghị nhưng ôn tồn: chuyện súng đạn, mưu lược và tình nghĩa đan cài.

Người ta đã nói nhiều về những tiến bộ của tiếng Việt trong khả năng diễn đạt mọi tình huống. Hồi ức Tướng Giáp đã điềm đạm chứng minh khả năng này, từ những tổng kết khái quát:

"Chiến tranh là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Thành bại của nó bao giờ cũng là kết quả tổng hợp sự vận động nhiều quy luật và nhiều yếu tố khác nhau, cơ bản và không cơ bản, tất nhiên và ngẫu nhiên. Những nhân tố quyết định đôi khi lại ẩn náu dưới một cái gì đó của cuộc sống và chiến đấu hằng ngày, quá quen thuộc, nên thường dễ bị lẫn lộn, dễ bị bỏ qua trong vô vàn những sự kiện liên quan tới chiến tranh" (VNG I, tr.421).

Câu văn hàm súc, khúc chiết và trong sáng. Những người lao động ngôn ngữ phải biết nghiêng mình trước một câu văn như thế, có thể làm kinh điển cho văn chính luận. Dĩ nhiên muốn viết câu văn trong sáng thì phải có tư tưởng trong sáng; muốn có câu văn Việt Nam thì phải biết suy nghĩ trong lời ăn tiếng nói Việt Nam hằng ngày.

Để tổng kết cuộc chiến ba mươi năm và thành quả của nó, Tướng Giáp đã cô đúc: "ý chí thống nhất Tổ Quốc là thế và lực mạnh trong chiến tranh" (VNG IV, tr.360). Câu văn sắc cạnh ở chữ "và", làm nổi bật hai khái niệm "thế" khác với "lực". Suốt 80 năm Pháp thuộc, các phong trào võ trang yêu nước đã thất bại, vì có thế mà không có lực. Sau đó, hai cường quốc Pháp và Mỹ đã thất bại trên chiến trường Việt Nam, vì có lực mà không có thế. Một ví dụ trong nghệ thuật cầm bút.

Đ.T
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.