Từ A đến Z với Hoàng Phủ Ngọc Tường

11:07 28/08/2008
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Trọng Tạo năm 1986

Đến World Cup 2002 này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị bạo bệnh tai biến mạch máu não vừa tròn 4 năm. Dù viết và nói rất khó khăn, nhưng trí cảm của anh vẫn minh nhậy lắm. Từ Hà Nội, tôi gửi tới anh 24 câu hỏi từ A đến Z, và anh đã vui vẻ trả lời bằng cách đọc cho vợ và mẹ vợ ghi lại. Dưới đây là cuộc trò chuyện (gián tiếp) giữa tôi và anh.
A. Anh là người viết tùy bút nổi tiếng, người đảm nhận cái "gánh nặng tùy bút" mà Nguyễn Tuân và Vũ Bằng đã trao lại. Anh nghĩ gì về nhận xét ấy?
- Thú thật tôi rất sợ sự nổi tiếng, vì nó dễ làm cho người ta tự mình nhầm lẫn với "hư danh". Tôi không phải là "người nổi tiếng từ A đến Z" như anh đã ban cho. Tôi chỉ là người cắm cúi viết từ trẻ đến giờ. Vì thế tôi đã chẳng nhận một "gánh nặng" của ai trao lại cả. Tôi thích thì viết, thế thôi.
B. Bên cạnh nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Con người nào được anh coi trọng hơn?
- Tôi thích danh nghĩa "nhà thơ" hơn, vì nhà thơ cần có cảm hứng, mà cảm hứng thì là một ngón tay lượm được cả trời. Chẳng thế mà Kant chỉ xếp hạng nhà thơ vào phạm trù "thiên tài", còn nhà văn thì không. Ở văn xuôi chỉ có sự lao động cần cù.
C. Cái tên Hoàng Phủ Ngọc Tường hơi bị hay nhưng cũng hơi bị... dài. Tại sao lại không phải là Hoàng Ngọc Tường? Chữ "Phủ" ở đây mang ý nghĩa gì?
- Xin anh hỏi bố tôi, vì chính ông là người đặt tên cho tôi. Khi tôi cầm bút thì cái tên đã có. Tôi không có bút danh theo yêu cầu của tổ chức nghĩa quân thời ấy. Trước khi viết tôi hoạt động xã hội. Còn chữ "Phủ" có nghĩa là "chỗ chứa sách vở hay tiền bạc" gì đấy.
D. Dường như anh ham văn chương từ nhỏ, nhưng lý do gì khiến anh đã chọn văn chương ngoài sự ham thích nó?
- Như đã nói, trước khi theo nghề văn, tôi đã là một người nghĩa quân. Chả ai chọn nghề ấy cả vì nó không đem lại sự bảo đảm tính mệnh cho một người khởi nghĩa.
Đ. Đang là giáo viên được coi như một thần tượng của học sinh, sinh viên Huế, anh lại bỏ nghề dạy học để lên rừng kháng chiến. Điều gì đã dẫn anh tới quyết định thay đổi ấy? Và anh đã "ra đi" như thế nào?
- Tôi đã ra đi theo "thân pháp" của nghề trên, nghĩa là len lỏi qua vòng vây của địch để tìm đến với tổ chức của mình.
E. "Em" nào làm nên tiếng sét ái tình đầu tiên trong đời anh? "Típ" người phụ nữ mà anh yêu thích?
- "Em" nào thì tôi xin được phong kín vì tôi chưa hỏi ý kiến xem "người ta" có đồng ý để cho tôi nhắc đến tên không. Chỉ có thể chắc chắn rằng, hiện giờ "em" đang định cư ở hải ngoại.
G. "Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". Nguyễn Du thác lời Hoạn Thư thế đấy. Còn anh?
- Tôi cũng giống thế!
H. Hai vợ chồng anh đều là nhà văn nhà thơ nổi tiếng, lại thêm cô con gái út cũng từng đoạt giải văn chương. Một gia đình như thế thật là hạnh phúc?
- Nếu một nhà như thế thì chưa chắc đã được hạnh phúc – kinh nghiệm cho tôi thấy như vậy. Nghề viết cần đến sự hy sinh của người thân, thử hỏi có công bằng không? Nếu một cộng đồng dám chấp nhận sự bất công thì lấy đâu ra hạnh phúc.
I. In được tác phẩm đấy là niềm vui của người viết. Anh đã cho xuất bản 12 cuốn sách, và hiện giờ người ta đã xuất bản tuyển tập của đời anh. Lần in nào làm anh vui sướng nhất? Vì sao?
- Thường thì lần in thứ nhất làm người ta vui sướng nhất. Trường hợp tôi thì không. Vì nhà xuất bản Giải phóng ở quá xa, nên khi quyển "Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu" đến tay tôi thì những bài bút ký khác đã in ở báo và tạp chí, và tôi đã nhận được thông tin. Lần in vui sướng nhất đến với tôi chính là lần này. Lý do: Tôi đã vào tuyển tập (coi như giang hồ gác kiếm), tôi vẫn giữ được nhân cách người cầm bút.
K. Kỷ niệm sâu sắc của anh khi nhận giải thưởng văn chương (với 2 tác phẩm: "Rất nhiều ánh lửa" và "Ngọn núi ảo ảnh"). Quan niệm của anh về giải thưởng?
- Tôi cho rằng đối với tác phẩm văn học, thì giải thưởng không nên chỉ để vui lòng người khác, mà phải khẳng định cho được một giá trị văn học. Với tôi, giải thưởng cho tác phẩm "Rất nhiều ánh lửa" (của Ban sáng tác Hội Nhà văn Việt ) để lại kỷ niệm sâu sắc nhất, vì là mới mẻ, và về nguyên tắc thì ban giám khảo chỉ chọn một. Càng về sau càng trở nên bình thường. Tác giả được giải thưởng cũng không lấy gì làm sung sướng ngoài sự nhận được một chút tiền. Sự mới mẻ ban đầu đã không còn nữa, và sự khen thưởng cũng có tính chất tùy tiện, khiến nhiều độc giả cảm thấy bực mình.
L. Là một nhà văn từng viết lời bình cho các phim "Nguyễn Trãi ở Côn Sơn", "Chìm nổi sông Hương"... lại còn xuất hiện trong phim "Việt Nam thiên lịch sử truyền hình" của hãng BBC như là một nhân vật được chọn mời, anh nghĩ gì về điện ảnh và điện ảnh Việt Nam?
- Anh đã hỏi đúng vấn đề tôi đang suy nghĩ. Quả thực tôi dính líu rất nhiều với điện ảnh. Nhưng cũng chỉ ở mức độ "dính líu" thôi. Với tôi, kịch bản điện ảnh là một tác phẩm văn học được nhiều người xem nhất, vì thế sự khen chê của khán giả cũng đồng thời là cách phê bình trung thực nhất. Với tôi, điện ảnh cốt nhất là ở khâu kịch bản. Xin hãy thông cảm với "tâm lý nghề nghiệp" của tôi, nhưng dù sao cũng có một chút sự thật ở trong ấy. Còn điện ảnh Việt Nam theo tôi, đáng ngợi ca nhất là vào những năm kháng chiến chống Mỹ. Hồi ấy, hình như điện ảnh có giá trị thức tỉnh nhiều hơn. Hồi ấy hình như chỉ toàn phim đen trắng, nhưng tôi có cảm tưởng các nhà làm phim tôn trọng sự thật hơn, và hình như đều tâm huyết để nói lên sự thật. Còn hiện nay, xin tha lỗi cho vì thói bi quan và điếc không sợ súng, tôi thấy hình như đối diện với một cuộc sống rất thật, chúng ta lại có một nền điện ảnh rất giả. Xin lỗi các diễn viên một lần nữa, cho phép tôi nói thẳng.
M. Muốn thành một nhà văn lớn có cần phải làm một nhà báo nữa không? Hình như anh đã mấy lần làm tổng biên tập báo, nó có chi phối công việc sáng tác của anh không?
- Tôi nghĩ rằng, nói chung trên đời này chẳng có gì là cần thiết cả, kể cả sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Nhưng có nghề làm báo song song với nghề văn, thì vẫn hơn, trong viễn tượng là nó không nêu những vấn đề ở góc độ trái với văn học, sau nữa là nó đem lại nhuận bút nhanh hơn văn.
N. "Nhàn đàm" là một chuyên mục của báo Thanh Niên do anh phụ trách rất được bạn đọc ưa thích. Anh có thể "nhàn đàm" một chút sau khi 3 tập sách nhàn đàm của anh đã được xuất bản?
- Cảm ơn anh đã nhắc đến "nhàn đàm" sau khi 3 quyển sách của tôi đã xuất bản, tôi có thể kết luận rằng, "nhàn đàm" cũng là một thể loại văn học, nó là một loại bút ký cực ngắn, và chỉ triển khai một vấn đề. Tuy nhiên chúng ta không nên lạm dụng nó. Hễ đã lạm dụng thì vitamin B12 cũng trở thành có hại!
Ô. "Ông Tường đi nói rồi" – đấy là câu trả lời vui của "mệ ngoại" với khách khi anh vắng nhà. Giữa nói và viết có gì khác nhau?
- Có khác nhau: Viết là viết mà nói là nói. Nhưng viết mà đọc lên nghe trôi chảy như nói thì đấy là thi pháp đáng mong muốn, không phải dễ mà có.
P. Phải nói rằng, tôi rất ấn tượng 3 chữ về anh: Nói – Viết – Uống (rượu). Từ ngày anh bị bạo bệnh, những cuộc chơi của bạn bè thiếu đi một tay chơi hùng biện. Vậy hiện nay anh chơi với bạn bằng cách nào?
- Hiện nay tôi vẫn giao lưu với bạn bằng lời nói và bằng nước suối. "Quân tử chi giao đạm nhược thủy" đó mà.
Q. Qua nhiều chặng cuộc đời, nghe nói anh từng được tiếp xúc với 12 nguyên thủ quốc gia? Cuộc tiếp xúc với nguyên thủ nào anh ghi nhớ nhất?
- Nó chẳng có gì đặc biệt cả, nên tôi cũng đã quên. Cái tạng của tôi là nhớ những chuyện "thương hải" của cuộc đời, và không phải là các vị nguyên thủ.
R. Rất nhiều phụ nữ hâm mộ anh. Anh nhận xét gì về phụ nữ miền Bắc, miền Trung, miền ?
- Tôi không sâu sắc gì điều ấy. Chỉ nhớ rằng, những người phụ nữ đã sinh đẻ ra dân tộc này. Hồi Cách mạng tháng Tám (1945), dân ta chỉ mới có 25 triệu. Tôi biết ơn phụ nữ Việt ở chỗ ấy, Bắc, Trung, gì cũng thế.
S. Sâu kín trong tình cảm của anh về 2 cô con gái rượu là gì vậy? Nếu một trong 2 cô ấy là con trai thì tình cảm của anh sẽ có gì khác không?
- Tôi rất thương yêu những đứa con gái của tôi, trước hết bởi nó là "con gái". "Phận gái chữ tòng" mà. Nói một cách bài bản là: Không có gì khác cả. Còn nói thực thì tôi chưa rõ, vì chưa có con trai.
T. Trịnh Công Sơn là người được anh ưu ái bằng những trang viết thật diệu vợi. Có phải đấy là sự đồng điệu của hai tâm hồn đầy ắp tâm thức Huế?
- Tôi không rõ. Nhưng tôi công nhận rằng, Trịnh Công Sơn có nhiều điều đáng viết. Theo tôi, đó là một nghệ sĩ có tầm vóc thế kỷ.
U. Uống rượu với bạn là một thú vui của anh. Bây giờ không uống rượu được nữa, anh có nhớ rượu không? Quan niệm về rượu của anh?
- Bây giờ tôi rất nhớ rượu, cũng như người khác nhớ thuốc lào. Rượu có khía cạnh văn hóa của nó, các cụ nói rằng, rượu làm "tiêu sầu" (như với Cao Bá Quát). Tại sao anh Tạo lại hỏi tôi nhiều về rượu, anh cũng mê nó chăng?
V. Vâng, tôi mê rượu như mê tiểu thuyết. Tại sao anh không viết tiểu thuyết? Hình dung của anh về một nền văn học mà không có tiểu thuyết?
- Một nền văn học "bất thành văn" nếu không có tiểu thuyết, nhưng nó có thể thiếu tôi. Còn việc tôi không viết tiểu thuyết, ấy là vì tiểu thuyết dài quá, trong khi tôi muốn rằng cần viết ngắn hơn còn để thì giờ cho người đọc làm việc khác cần hơn.
X. Xa Huế anh có chịu nổi không?
- Tôi không muốn xa Huế, e cũng như con sâu kén không muốn rời xa cái tổ của nó. Tôi cảm thấy rằng ở Huế, tôi vừa sống vừa quên lãng chính mình. Bất cứ ở đâu, nếu người ta "quên" được thì thú vị quá.
Y. Yêu và ghét là một cặp song sinh muôn đời tồn tại. Điều gì anh yêu nhất và điều gì anh ghét nhất?
- Anh nói đúng! Yêu và ghét đều tồn tại cùng một lúc, không thể tách riêng hai mặt của một đồng xu. Nói đúng ra tôi cũng không biết ở đời này tôi yêu cái gì nhất, nhưng tôi biết rất rõ là tôi ghét nhất hai điều: một là sâu róm; hai là thói phản bạn (đồng loại với thói phản bội, thói "bội tình", thói "vong ân bội nghĩa"...).
Z. Ziczăc với nhau cũng đã dài, giờ kiểm lại mình, anh thấy sự nổi tiếng có gì đáng vui và đáng buồn không?
- Cả hai. Đáng vui là có nhiều người hy vọng về mình, đáng buồn là mình bị buộc phải sống như một huyền thoại!
Huế mùa Festival 2002
N.T.T
(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.

  • HOÀNG THỤY ANH

    “Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.

  • ĐÔNG HÀ

    Mỗi dân tộc có một số phận lịch sử. Và lịch sử chưa bao giờ công bằng với dân tộc Việt chúng ta, khi trải qua hơn bốn ngàn năm, luôn phải đặt số phận con dân dưới cuộc chiến. Vì vậy, để viết nên trang sử nước nhà, không chỉ những chính sử gia, mà các nhà văn, nhà thơ, người cầm bút, không tránh chạm ngòi bút của mình vào nỗi đau của dân tộc.

  • NGUYỄN QUANG THIỀU

    Khi đọc xong bản thảo trường ca Nàng, quả thực trước đó tôi không hình dung có một trường ca như vậy được viết trong thời đại hiện nay.