LÊ QUANG THÁI
Sáng tác Văn tế cô hồn hay Văn tế thập loại chúng sinh thể hiện lòng hiếu nghĩa đối với tiên nhân, người thân và kể cả đồng bào, nó dựa vào nguồn cội tri ân sâu thẳm.
Ảnh: internet
1. NGUỒN GỐC
Rằm tháng bảy là tết Trung Nguyên, ngày giải thoát vong hồn, còn được gọi là ngày xá tội vong nhân. Nói về nguồn gốc của ngày Tết này, Lê Quý Đôn đã viết:
“Các đạo sĩ có phép tiêu tai giải ách, họ dựa vào thuật số âm dương ngũ hành, suy tính niên vận của người ta, rồi viết ra như cách thức biểu sớ: “Tâu lạy thiên tào, xin ngài giải ách”. Thế gọi là dâng sớ. Đến nửa đêm bày cổ bàn, nem rượu, bánh trái, lễ vật dưới trăng sao mà dâng cúng Thiên Tào Thái nhất (đại đế), Ngũ kinh, Liệt tú; cũng làm bài trạng như cách dâng sớ, gọi là làm lễ Tiếu (lập đàn cầu đảo). Lại lấy gỗ làm ấn, khắc chữ nhật nguyệt tinh thần; rồi hà hơi đóng dấu vào bệnh nhân, cũng có nhiều người khỏi. Đời sau làm trai đàn là bắt nguồn từ đây”1.
Để làm rõ vì sao tết Trung Nguyên được gọi là lễ Vu Lan, nhà bác học tinh thông Phật học Lê Quý Đôn đã viết rõ về nguồn gốc của lễ này như sau:
“Tết Trung Nguyên, người ta để đồ mã và giấy ngũ sắc vào cái giường ba chân, như cái đèn nồi, gọi là Vu Lan bồn treo áo giấy, rồi lấy đóm đốt”.
Thích Thị Yên Lãm: Tiếng Phạn nói “Vu Lan bồn” như tiếng Hán nói
“Cửu đảo huyền” (cứu người bị treo ngược)”2.
![]() |
Ảnh: internet |
Theo Vu Lan Kinh: Đại đệ tử của Đức Phật là Mục Kiền Liên vì bất nhẫn khi thấy mẹ bị đọa vào đường ngục quỷ, chịu khổ, nên Ngài thưa hỏi Phật cách giải cứu. Phật dạy vào ngày Rằm tháng 7 là ngày chúng Tăng tự tứ hãy dùng thức ăn ngon quý, ngũ quả cúng dường Phật tăng trong 10 phương thì mẹ ông sẽ được thoát li khổ nạn. “Vu Lan” nghĩa là “đảo huyền”.
Nhà thơ Lục Du (1125 - 1210) cho biết thời bấy giờ đã có tục làm cổ chay cúng gia tiên. Mốc thời điểm này tương ứng trong khoảng cuối đời vua Lý Nhân Tông đến đời vua Trần Thái Tông của nước Đại Việt.
Đây là một tập tục lâu đời ở nước ngoài, còn ở nước ta thì sao? Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa thu, tháng 7, năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình thứ 1 (1434); Ngày 15, mở hội Vu Lan, tha tù tội nhẹ 50 người, cho ai sử dụng kinh 220 quan tiền”3.
Như thế thì ít nhất lễ Vu Lan đã trở thành quốc lễ của nước ta khoảng 580 năm. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên (1908 - 1975), tác giả sách Văn minh Việt Nam bằng Pháp ngữ, xuất bản năm 1944; sách có đoạn viết rõ ràng hơn: “Hội lễ dân gian của Đạo Phật là ngày rằm tháng Bảy âm lịch. Đây là một kiểu ngày lễ của những người chết, trong ngày đó, ở địa phủ, do lòng từ bi của chư Phật, một cuộc xá tội lớn, được thực hiện, các ngục được mở và nhiều vong có tội tỏa đi khắp thế gian. Các gia đình đi chùa cúng và tụng Kinh để giải thoát cho hồn của thân nhân mình4.
Nguyễn Văn Huyên phác thảo lại cảnh tượng Hội lễ dân gian của Phật giáo băng cách miêu tả như là “hiện tượng ngày Rằm tháng Bảy âm lịch”, chớ không đi xa hơn là truy nguyên nguồn gốc để giải thích câu ca “Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân” được lưu truyền trong dân gian vào những năm cuối của thập kỷ 30 thuộc thế kỷ trước.
Kết hợp giữa hai yếu tố truyền thông mang tính cách kinh điển Phật giáo với hiện tượng lễ hội trong xã hội Việt Nam năm 1934; giữa lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang chủ xướng tìm về cái uyên nguyên, tinh anh của Văn hóa Phật giáo đang được cổ xúy canh tân.
Theo dòng chảy lịch sử - văn học nước nhà, ngày rằm xá tội vong nhân đã trở thành quốc lễ Vu Lan, nay đã trở thành VU LAN THẮNG HỘI diễn ra từ làng quê, chùa quê cho đến thành đô khắp nước, thể hiện lòng hiếu thảo đối với tiên nhân và người thân đã mất.
![]() |
Văn tế Cô hồn - Ảnh: internet |
2. THẬP GIỚI CÔ HỒN QUỐC NGỮ VĂN
Xem chừng giữa Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十誡菰魂國語文)với Văn tế thập loại chúng sinh (文祭十類眾生) có nhiều nét tương đồng và khác biệt nhau tuy rằng cả hai danh phẩm này đều bắt nguồn từ Du gia khoa nghi.
Theo Nguyễn Lang, (tác giả bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận), thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một áng Văn Nôm cổ gồm có một đoạn mở đầu và mười đoạn nói về mười giới cô hồn: 1- thiền tăng; 2- đạo sĩ; 3- quan liêu; 4- nho sĩ; 5- thiên văn địa lý; 6- lương y; 7- tướng quân; 8- hoa nương; 9- thương cô; 10- đãng tử.5
Học giả Trần Văn Giáp cho biết 2 điều đáng lưu ý qua sách Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I tại 2 trang 218 và 219 như sau:
Chi tiết 1: “Hiện nay thư viện khoa học Trung ương còn lưu tàng được một số sách” gọi là Thiên Nam dư hạ tập (ký hiệu A.334), gồm nhiều quyển, đóng 10 tập, từ tập sớ IX chép trên giấy hẹp (khổ 10 x 28) tờ 2 trang, trang 8 dòng, dòng 22 chữ, chữ viết đá thảo có vẻ xưa, còn thì toàn là sách mới chép lại bằng giấy kinh (khổ 22 x 31) tờ 2 trang, trang 9 dòng, dòng 22 chữ viết chân phương, không ghi rõ chép lại từ đâu và nguyên bản mượn của người nào”6.
Chi tiết 2: “Tập VI, 122 tờ..., tờ 46 - 55: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (Lê triều Thánh Tông ngự soạn) (十誡菰魂國語文梨朝圣涼御撰) (?), không thêm Nguyễn Trực phụng bình như các bài khác.
Mười điều dạy bảo các cô hồn ấy như sau: 1- Thứ nhất thiên tăng rằng; 2- Thứ hai giới đạo sĩ rằng; 3- Thứ ba giới quan liêu rằng; 4- Thứ tư giới nho sĩ rằng; 5- Thứ năm giới thiên văn địa lý rằng; 6- Thứ sáu giới lương y rằng; 7- Thứ bảy giới tướng quân rằng; 8- Giới hoa nương rằng; 9- Thứ chín giới thương cổ rằng; 10- Thử mười giới đãng tử...”.7
Trần Văn Giáp không đồng tình Thập giới cô hồn quốc ngữ văn do chính vua Lê Thánh Tông viết. Nhà vua chỉ đề thơ lên bản thảo bài tựa sách Thiên Nam dư hạ tập (trong đó có áng văn Thập giới cô hồn quốc ngữ văn) đã soạn sẵn. Nguyên văn bài thơ tựa ấy bằng chữ Hán mà sách Đại Việt sử ký toàn thư đã phiên âm:
Hỏa thử thiên đoan bố;
Băng tâm ngũ sắc ty,
Cánh cầu vô địch thủ
Tài tác cổn long y.8
Trần Văn Giáp đã dịch:
Ngàn mảnh vải bông con chuột lửa,
Năm màu tơ nõn cái tằm băng
Lại tìm thợ khéo tay vô địch
May bộ áo rồng chi đẹp bằng.
Quan điểm của tác giả bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận phản biện về nhận thức của Trần Văn Giáp rất rõ ràng:
“Không chắc quan điểm của Trần Văn Giáp là đúng. Trong Thiên Nam dư hạ tập ta thấy có chép thơ văn của hội Tao Đàn, trong đó có Quỳnh Uyển Cửu Ca, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một tác phẩm Nôm quan trọng, sao lại không thể đưa vào Thiên Nam dư hạ tập, nhất là khi tác phẩm này do Tao Đàn Nguyên Soái sáng tác?”9
Mở đầu áng văn Nôm cổ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn có những câu viết:
“... Cổ tới nhẫn kim; sinh thời có hóa. Ấy vậy, hồn là thần, phách là quỷ, no nên bụt, đói nên ma... Có quân tử, có tiểu nhân, chẳng cùng một đấng; trong phong quang, trong nghệ nghiệp, tới trót 10 loài. Ai ai cải lấy lòng phàm; khăn khắn cùng thời nghe giới.”
- Về giới thiền tăng, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết như lời răn:
“Chịu giáo Thích Già, thì lòng giữ giới...”. Có bài kệ than rằng, rõ nét lời than ở 2 câu kết:
Nói những thiên đường cùng địa ngục
Pháp sao chẳng độ được mình ta,,10
- Về giới nho sĩ nhận những lời răn: Hỡi ơi! Sống bởi chưng bàn bạc sự người; thác cho phải phiêu lưu đòi chốn. Vài bài kệ có lời than trách; tiêu biểu là 2 câu kết:
Bút mực chẳng quên bề chi lũ
Lộc cao sao khéo lỡ người ta.11
Như vậy chữ giới (誡r) trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn khác nghĩa hẳn với chữ “loại” trong Văn tế thập loại chúng sinh, về thể tài văn học thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn được viết theo lối tản văn nghiêng hẳn về chính luận. Thơ kệ chỉ thâu tóm lời răn để minh chứng, minh họa mà khai thị cho người được nghe, kể cả cô hồn được nghe như nghe kinh vậy.
![]() |
Ảnh: internet |
3. VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Loại (類) có nghĩa là loài giống như tứ tự thành ngữ “phân môn biệt loại”. Mười loài khác nghĩa với mười giới. Chúng (眾) có nghĩa là đông, nhiều. 眾生 là “các loài có sống, có chết, có cảm giác”. Chúng sinh ở trong tác phẩm Văn tế thập loại chúng sinh có nghĩa là “người”, “mọi người”. Chữ (十): thập là pháp số, vay mượn để chỉ số nhiều. Bổ sung cho việc chỉ “người”, trong dân gian có từ “kẻ”. “Kẻ” và “người” đồng nghĩa, đồng thuyền, đồng hội.
Về thể tài văn học của áng thơ nôm bất hủ đã trở thành kinh với 4 tên gọi: 1- Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh; 2- Chiều Hồn Văn; 3- Thỉnh Âm Hồn Văn; 4- Ca Tế Chúng Sinh.
Qua tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du (1766 - 1820) đã viết hai câu 2967 - 2968 như để giải thích về ý nghĩa của việc Chiêu hồn:
Chiêu hồn thiết vị lễ thường
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Đừng xem thường, danh từ “lễ thường” có nghĩa là quan trọng thứ yếu sau các lễ tế Giao, lễ tế Xã Tắc... Rút ruột từ cổ thư Lê Quý Đôn tìm ra chữ gọi của “lễ thường” có tên gọi là “tục tiết”.
Thỉnh âm hồn văn được sáng tác theo thể ngâm khúc gồm hơn 45 khổ, gọi là hơn bởi lẽ bài thỉnh cô hồn này được kết thúc bằng hai câu song thất “Phật hữu tình”:
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không…
Sau cùng, một nét đặc sắc khác của Văn tế thập loại chúng sinh được gọi là sám hoặc sám văn trong cúng tế, chiêu hồn, gọi hồn từng loại chúng sinh.
Trong suốt toàn áng văn gồm 182 câu thơ song thất lục bát được dựng theo thể ngâm một cách truyền cảm giao hưởng giữa hai cõi âm - dương, thế mà chỉ có lời gợi đến cô hồn, Nguyễn Du chỉ nhắc 10 loại liên quan chỉ có một lần nhắc chung tại câu 11: “Thương thay thập loại chúng sinh”.
Pháp số 10 hàm chỉ số nhiều, những trên 10 trở lên. Chúng sinh ám chỉ mọi người - Nguyễn Du đã dùng các danh từ “người” hoặc “kẻ” đến 19 lần qua những đến 15 lần “triệu hồn, được trích chọn từ câu 21 cho đến câu 136. Chọn đếm ra thì có tới 30 câu/182 câu”.
Không thể kể hết, tiêu biểu nhắc đến một số câu thơ minh họa:
- Câu 21, 22:
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chỉ những lăm cất gánh non sông.
- Câu 45, 46:
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son sống thác ở tay.
- Câu 93, 94:
Cũng có kẻ vào sông ra biển.
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
- Câu 121, 122:
Cũng có kẻ mắc đoàn tù rạc
Gởi mình vào chiếu rách một manh.
- Câu 129, 130:
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người xẩy cỗi xa cây.
- Câu 131, 132:
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành
- Câu 135, 136:
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khôn thương.
Nói 9 phương trời, 10 phương Phật thì đích thị là chuẩn mực. Viết thập loại thì có thể hiểu theo cách ước lệ. Phải hiểu là trên 10 như 12, 14... cũng đúng theo tư duy tổng quan của người Việt về số lớn. Nói 100 họ (bách tính) nhưng thực tế kê ra lại hơn 100 dòng tộc. Thói tục trong bán buôn mua 10 lại chầu thêm 2, 3 hoặc 4 là bằng chứng.
Cái khôn khéo của tác giả Nguyễn Du là đã dùng 10 loài chúng sanh lan tỏa qua phần triệu hồn (gọi hồn). Với “Cô hồn các đẳng”, dân gian thường nói thì họ chết đủ thứ nghiệp theo lỗi “sinh nghề tử nghiệp”. Đó là chưa kể chết non, chết già. Trên 10 loài chúng sinh như sĩ, nông, công, thương, binh, còn phải kể các loại chúng sinh khác như ngư, tiều, canh, mục hoặc cầm, kỳ, thi, họa chẳng hạn.
Đó là nét khác biệt và tiến bộ của Nguyễn Du so với các tác giả thuộc triều thần đời vua Lê Thánh Tông đã biên soạn Văn tế thập giới cô hồn quốc ngữ văn.
Trong toàn bài, tuyệt nhiên không tìm thấy câu nào nhắc đến giới tăng lữ như Thập giới cô hồn quốc ngữ văn do triều thần đời Lê Thánh Tông biên soạn mà chính nhà vua đề lời tựa của bộ sách Thiên Nam dư hạ tập ra đời vào thời Hồng Đức thứ 14, tức năm Quý Mão, 1483. Đời sau và đời nay đã phản biện tranh cãi: Ai là tác giả? Người bảo của Thân Nhân Trung, kẻ nói của vua Lê Thánh Tông. Và hiện nay chưa tìm ra lời giải mã đủ sức thuyết phục. Thiết nghĩ đó là khuyết nghi của lịch sử văn học để lại cho người đời sau. Chưa biết ai sẽ vén bức màn những bí ẩn này để làm sáng rõ vừa Quốc sử lẫn Phật sử nước nhà.
Riêng, Văn tế thập loại chúng sinh thì có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Nguyễn Du đã từng nhen nhóm nguồn cơn: “Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh độ/ Phóng hào quang cứu khổ độ u”.
Năm 1973, giáo sư Thạch Trung Giả cho ra mắt bạn đọc bộ sách Văn học phân tích toàn thư đã viết:
“... Kinh Chiêu Hồn tả thế giới của người chết, nhưng nó chỉ là phần phản ánh thế giới của người sống, đó là hình ảnh thời Lê Mạt, mà cũng vì thế nên mặc dầu thê thảm ghê rợn nhưng Kinh Chiêu Hồn vẫn không quái đản như những tác phẩm Edgar Po, nó còn NHÂN LOẠI TÍNH (người viết tôn hoa lên) vì nó tả hình ảnh nhân loại qua những bóng ma, nó cảm lòng ta chứ nó không muốn cho thần kinh thác loạn”12.
Tự thân Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh tự nhiên đã đẩy đưa Tố Như Nguyễn Du lên văn đàn thế giới và trở thành Đại thi hào dân tộc kể từ năm 1965.
Vinh danh lớn không những dành cho người Việt Nam mà còn cho hàng nho sĩ không thấy trở ngại gì khi mình đồng thời cũng là Phật tử nữa. Đó là nội dung lời bình về Nguyễn Du của tác giả sách Việt Nam văn hóa sử luận13.
Thiết nghĩ, đó là “cái dũng” của người cầm bút tung lên hay nói cách khác là khí tiết của nhà nho Nguyễn Du, Đại thi hào của thế giới.
L.Q.T
(TCSH343/09-2017)
-------------------
1. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, Nxb. Miền Nam, Sài Gòn, 1973, tr.187; 195.
2. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, Nxb: Miền Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 187; 195. Tiếng Phạn: Ullambana = Vu Lan bồn hội.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Cao Huy Bin và Đào Duy Anh dịch, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004, tr. 129.
4. Văn minh Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.361.
5. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr.493.
6. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Trần Văn Giáp, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1984, tr.218.
7. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Trần Văn Giáp, Sđd, tr.219.
8. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.386.
9. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.492
10. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.494
11. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.495.
12. Văn học phân tích toàn thư, Thạch Trung Giả, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1973, tr.33.
13. Xem Việt Nam văn hóa sử luận, Nguyên Long , Sđd, tr.675-676.
PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)
Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.
ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.
(Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)
INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)
KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.
(Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)
LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.
NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.
TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.
ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.
CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.
Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”
LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H
LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)