Từ “tay trái” đến “hai tay”

09:50 15/07/2020

NGUYỄN KHẮC PHÊ

Sáu chục năm trước, tôi chỉ là người hoạt động văn nghệ “tay trái”, vì “tay phải” còn lo làm công ăn lương. Sau khi rời ngành giao thông 1974 cho đến lúc về hưu năm 1999, thì làm văn nghệ cả hai tay!

Trao kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp VHNT cho các văn nghệ sỹ Hồng Nhu, Hải Bằng, Nguyễn Khắc Phê, Trần Hữu Pháp (từ phải qua) tại trụ sở Hội Văn nghệ 26, Lê Lợi, Huế

Nói vậy cho… vui, cũng vì hoạt động văn nghệ, một mặt là cống hiến, nỗ lực sáng tạo của từng cá thể trên trang viết, sàn diễn, bên cây cọ hay chiếc máy ảnh…; mặt khác là công việc có tính hành chính, tổ chức thành hội đoàn để tạo điều kiện cho mỗi cá nhân văn nghệ sỹ làm việc có hiệu quả hơn.

Thời gian hoạt động văn nghệ “tay trái”, nhờ có một số bài ký, truyện ngắn đăng báo này báo khác, rồi tiến lên in cuốn sách đầu tay, nên năm 1974 nhà thơ Xuân Hoàng và nhà văn Trần Công Tấn, thay mặt Hội Văn nghệ Quảng Bình, sang gặp đồng chí Trưởng ty Giao thông Lê Đức Mận, xin cho tôi chuyển sang Hội Văn nghệ Quảng Bình. Phải nói thật là tôi cũng có chút phân vân trước bước ngoặt cuộc đời này. Cảm giác tương tự như một anh nhà quê lần đầu đứng trước rạp hát đầy âm thanh và màu sắc cuốn hút. Đang ăn ở nơi chốn quen thuộc, sang “miền đất mới” ấy liệu có làm ăn gì được không?...

Còn nhớ, ngày cuối cùng ăn lương ngành GTVT là ngày 31/5/1974. Rời ngành GTVT, một điểm nóng trong những năm qua, vào mùa hè, sau mấy ngày nổi gió Lào đầu tiên; nhưng rồi trời mưa, mát mẻ. Có thể đây là một “điềm lành”. Nghĩ cũng vui, khi chuyển sang Hội vào đúng ngày Quốc tế thiếu nhi. Thì trong “làng” văn nghệ lúc đó, tôi cũng chỉ như một “thiếu nhi” mới lớn mà thôi!

Tôi làm văn nghệ “hai tay” từ đây. Lúc đó, Mỹ đã ngưng ném bom miền Bắc nhưng Hội Văn nghệ Quảng Bình vẫn ở xóm Phú Vinh - nơi sơ tán quanh vùng Cộn, bên cạnh triền đồi thoai thoải, đầy sim mua, chạc chìu, rất gần với những trận địa pháo phòng không những năm chiến tranh. “Thực tế” này là đề tài sáng tác cho không ít anh chị em ở Hội. Trần Nhật Thu có bài thơ “Hoa chắt chiu” khá hay viết về hoa chạc chìu với những nụ hoa trắng khiêm tốn mà hương nồng nàn trên vùng đồi sỏi đá khô cằn. Nhiều tác phẩm tạo hình bằng rễ cây của nhà thơ Hải Bằng cũng có xuất xứ từ vùng đồi này. Rồi chuyện gặp gỡ những chàng pháo thủ hình như cũng đã vào thơ, truyện của Lê Thị Mây, Xuân Hoàng… Tôi nhớ lần đầu gặp Nguyễn Đình Chính (con trai nhà văn Nguyễn Đình Thi) khi anh còn mặc áo lính, cũng từ triền đồi có các trận địa pháo phía sau, ghé thăm Hội. Còn Đỗ Chu thì tôi gặp ở bến phà Quán Hàu cùng với một vài bạn văn khác, trong chuyến đi thực tế chiến trường. Không còn nhớ nguyên văn, nhưng hôm đó, Đỗ Chu “tuyên bố” một câu đại ý rằng chuyến này về sẽ viết một tác phẩm lớn!

Vậy nhưng “tác phẩm lớn” của Đỗ Chu để lại cho đời lại không phải là những trang viết phản ánh thực tế chuyến đi đó. Có lẽ vì cái “tạng” của anh không hợp với đề tài diễn tả những mặt trận ác liệt mịt mù bom đạn… Tôi ghi lại chi tiết này cũng do mở những trang ghi chép tại các hội nghị được mời tham dự từ khi về Hội, hầu hết là những thông tin khô khan, vô hồn, không để lại dấu ấn gì, nên thực ra chẳng có giá trị mấy đối với một người muốn viết văn. Nói vậy, để thấy từ thực tế đến sáng tác có một khoảng cách rất xa; nói cách khác là chỉ khi nhà văn gắn bó với “thực tế” như một người trong cuộc, mới hy vọng có cảm hứng và đủ chi tiết sống động để làm nên tác phẩm. Chính người làm văn nghệ “tay trái” lại có thế mạnh về phương diện này. Tất nhiên là muốn làm nên tác phẩm thì còn phải có tài năng…

Văn nghệ sỹ Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế tại Ải Chi Lăng (Lạng Sơn) trong chuyến đi thực tế các tỉnh biên giới phía Bắc năm 2005

Khi Bình Trị Thiên trở thành một tỉnh, hầu hết các tên tuổi ở Hội Văn nghệ Quảng Bình đã trở thành “hội viên sáng lập” và là cốt cán của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, trong đó, nhà thơ Xuân Hoàng và nhà văn Mai Văn Tấn đã tham gia ban lãnh đạo Hội nhiều năm.

Trước khi Hội Văn nghệ thành lập, tôi đã có dịp ghé lại ngôi nhà 26 Lê Lợi. Là dân miền Bắc, nhưng tình văn nghệ không giới tuyến đã giúp kết nối những con người chưa bao giờ gặp nhau. Vừa đến, tôi đã nhập cuộc được với các “nghệ sỹ” Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ… Tôi có bao thuốc “Điện Biên” đem ra mời, Hoàng Phủ và Trịnh Công Sơn liền ra quán đổi lấy một bao “Nông”, hút đậm hơn, lại còn lãi 6 hào. Không ngờ các vị nghệ sỹ miền núi Ngự sông Hương thơ mộng mà cũng cụ thể như thế. Trịnh Công Sơn cởi trần, chuyện cởi mở, uống rượu nhắm thức ăn, chứ hầu như không ăn cơm; vừa ăn uống, vừa hút thuốc. Trịnh Công Sơn bảo: Trước còn hai tay hai điếu!...

Đó là kỷ niệm “ra mắt” bạn bè văn nghệ Huế một ngày tháng 5/1976. Sau đó ít lâu, tôi thành cán bộ Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Việc đầu tiên là đi dự Trại viết ở Túy Vân - một thắng cảnh gần cửa biển Tư Hiền - rồi tham gia biên tập Tạp chí Văn nghệ Bình Trị Thiên; từ tháng 6/1983 chuyển thành Tạp chí Sông Hương…

Thời gian này, hầu hết anh chị em văn nghệ sỹ ở Quảng Bình vào đều tạm trú dưới tầng hầm chật hẹp tại Trụ sở Hội 26 Lê Lợi. Riêng “thủ trưởng” Lương An từ Quảng Trị vào, được ở phòng trên gác; về sau, khi anh Lương An được điều qua Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, anh Mai Văn Tấn, nguyên là sĩ quan biên phòng, tác giả của bộ sách “Truyện cổ Vân Kiều” rất được hâm mộ, về Hội làm Thường trực, đã ở căn phòng đó. Còn các phòng ở tầng hầm được chia cho các nhân viên cán bộ Hội: Nguyễn Thị Kim, Vương Hồng Hoan, Vĩnh Nguyên, Lê Thị Mây…; vợ con tôi được ở trong một căn phòng vuông, có thể gọi là “mặt tiền” của tầng hầm này; ít năm sau thì có thêm nhà văn Hồng Nhu ở Vinh chuyển vào. Cái thế giới “tập thể” chung một nhà tắm, một nhà vệ sinh này đã nảy sinh vô số chuyện khôi hài về những cuộc “chạm trán” ngoạn mục…

Từ ngày đó, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu Trường Tiền! Không ít tên tuổi tôi nhắc đến trên đây nay đã ở “cõi khác”. Nhân giới văn nghệ toàn Tỉnh sắp tổ chức Đại hội lần thứ XIII, tôi nhớ lại vài kỷ niệm hoạt động văn nghệ từ “tay trái” sang cả “hai tay” của mình mấy chục năm trước, cũng là dịp nhớ đến các anh chị đã bỏ bao công sức, tâm huyết, đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng “ngôi nhà” Văn nghệ Thừa Thiên Huế vững mạnh cho đến hôm nay. Trong lớp người ấy, còn phải kể đến nhạc sỹ Trần Hoàn, nhà thơ Thanh Hải (mà tháng 12 tới là kỷ niệm tròn 40 năm ngày anh qua đời), họa sỹ Vũ Trung Lương, Bửu Chỉ, nhạc sỹ Trần Hữu Pháp và nhiều tên tuổi khác nữa. Nhắc đến các anh chị “tiền nhiệm” đã góp sức tạo dựng nên một Hội Văn nghệ địa phương có uy tín, được nhiều bạn bè gần xa nể trọng cũng là đặt kỳ vọng vào những người sẽ đảm đương trách nhiệm trong những năm sắp tới xây dựng tổ chức văn nghệ ở một miền đất luôn được “thiên hạ” trông đợi có thêm nhiều tài năng, nhiều tác phẩm có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội.

Chúng ta đang ở vào một thời đoạn cả thế giới đầy những biến động khó lường ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực, mọi địa bàn, mọi giới mà đại dịch Covid-19 là một “tai nạn toàn cầu” chưa đến hồi kết và có khi đó mới chỉ là khởi đầu của một chuỗi những sự cố gây xáo trộn cả hoàn cầu. Tôi dẫn một biến cố vừa xảy ra sau khi nhắc lại vài kỷ niệm một thời cũng đã xa, để thấy hoạt động văn nghệ thời nay trong hoàn cảnh mới có thể rồi sẽ gặp nhiều trắc trở, không dễ tạo được không khí đồng thuận vui vẻ “rập ràng” như trước, công chúng cũng ít gần gũi, quan tâm, hưởng ứng  văn nghệ như trước do bị nhiều loại hình giải trí và thông tin cuốn hút… Và như thế, trong nhiệm kỳ mới, trách nhiệm những người đảm đương công việc tập hợp, tổ chức, tạo điều kiện cho văn nghệ sỹ hoạt động sáng tạo hiệu quả bao gồm cả việc xuất bản Tạp chí Sông Hương đều kỳ, có chất lượng, sẽ khó khăn, nặng nề hơn trước. Mặc dù vậy, tôi tin vùng đất giàu truyền thống văn hóa này luôn có lớp người kế tục xứng đáng. Chính hoạt động độc đáo của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế trong đại dịch Covid-19 đã cho tôi niềm tin đó. Trong khi nhiều cơ quan “bó tay”, nhiều tổ chức văn nghệ ở các địa phương khác “án binh bất động” thì thì Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tổ chức kêu gọi văn nghệ sĩ trong tỉnh tham gia cuộc chiến chống dịch bệnh Covid-19”. Chỉ trong một thời gian ngắn phát động, tổng số tiền từ đóng góp, bán ảnh, đấu giá tranh gây “Quỹ văn nghệ sĩ giúp đồng bào khó khăn vì Dịch bệnh Covid-19” là 91.075.000 đ… Đây chỉ là một bằng chứng mới nhất. Những trại sáng tác, những chuyến đi thực tế dựa vào sự giúp đỡ của các địa phương, các ngành được tổ chức trong các năm qua cũng có thể xem là bước “đổi mới tư duy” theo hướng “xã hội hóa” hoạt động văn nghệ…

Cũng là nói cho… vui, mấy điều vừa kể chủ yếu là công lao của những văn nghệ sĩ hoạt động cả “hai tay” - những anh chị em ở cơ quan Liên hiệp Hội, Tạp chí Sông Hương và Ban Chấp hành Liên hiệp Hội. Mọi người đều biết thành tựu hoạt động văn nghệ chủ yếu có giá trị sâu rộng và lâu bền hơn lại là tác phẩm, là công trình thường được sinh thành trong thầm lặng một cách tự nguyện của mỗi cá nhân (hay nhóm) không ai trả lương, không nhằm lợi lộc nên gọi là hoạt động “tay trái” (vì “tay phải” còn lo nghĩa vụ công chức hay kiếm sống) chứ đã hoạt động văn nghệ thì “tay trái” hay “hai tay” đều phải tận tâm, bền chí và cả vô tư nữa. Trong giới văn nghệ sĩ, hình như người làm “tay trái” bao giờ cũng chiếm số đông... Mong rằng mọi hoạt động của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ sáng tạo luôn hướng về số đông ấy, trong đó có không ít tài năng…

N.K.P
(TCSH377/07-2020)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.