Từ "Những bông hoa…" đến "Những ngọn sóng"

14:25 20/11/2013

MAI VĂN HOAN

Không hiểu sao nghĩ về Hoàng Vũ Thuật tôi lại nhớ đến Những bông hoa trên cát; mặc dù anh đã có thêm Thơ viết từ mùa hạ và Gửi những ngọn sóng.

Ảnh: internet

Ở đây, tôi không có ý nói rằng: Những bông hoa trên cát là tập thơ trội nhất của anh. Tôi muốn nói: Những bông hoa trên cát là cách gọi đúng nhất, gợi nhất về thơ Hoàng Vũ Thuật. Thơ anh là những chấm trắng đính như những ngôi sao trên thân cây xương rồng thô tháp và đầy gai nhọn. Những bông hoa ấy không sặc sỡ, không ngát hương chỉ mỏng mảnh dung dị nhưng lại có sức sống bền dai. Thoạt nhìn có thể chưa thích lắm, song ngắm kỹ mới thấy quý cái màu kết tinh từ cát ấy.

Nếu được trình bày bìa thơ Hoàng Vũ Thuật, tôi sẽ lấy màu cát trắng làm nền. Trên cái nền bằng cát là những cây xương rồng "đứng chen nhau như tháp dựng giữa trời" điểm những bông hoa cũng trắng như màu cát. Hoàng Vũ Thuật lớn lên ở một vùng quê nghèo. Cuộc đời anh gắn liền với cát. Về Đồng Hới, anh nhìn thấy: "bên kia sông bãi cát nắng lên đầy", qua Bạch Bằng anh nhìn thấy những dãy nhà, "loi thoi trên doi cát", đi dọc bờ sông Hồng, anh cũng thấy "bãi cát lô xô lụa trắng", cho đến khi ra đảo, cát vẫn bám theo anh:

Gió đi qua đỉnh cát
Thành gợn sóng mặt hồ
Trắng một màu da diết
Quen rồi còn ngẩn ngơ


Vì sao đi đâu anh cũng nhìn thấy cát, anh cũng gặp cát, anh cũng nói về cát như vậy? Dễ hiểu thôi, bởi như anh đã nói "Tôi lớn lên cát ở cùng tôi, tôi với cát gần nhau máu thịt". Nơi đó, anh có một căn nhà nhỏ, có "trái bát hoang đỏ mọng dưới lùm cây", có "gốc khế đầu mùa hoa tím không hay", có tiếng cu gáy, thân cau già, có người mẹ hiền mảnh khảnh "hạt cát dấu trong nếp nhăn vầng trán", có người bạn đời tảo tần của anh ngồi chải tóc bên thềm "bao hạt cát rơi cùng tóc rối", có cả con chim cheo cheo đẻ trứng bỏ quên "cát ấm ngày thu nuôi trứng nở"… Bởi vậy, ít ai hiểu cát bằng anh, ít ai yêu cát bằng anh, ít ai thủy chung với cát như anh. Hoàng Vũ Thuật nghe cả "hơi thở" của cát, nghe cả "tiếng nói" của cát "bằng âm vang cát xát dưới chân mình". Trên cái xứ sở mà cát có thể "luộc chín trứng gà", gió Lào "uốn cong ván gỗ" ấy người, vật, cỏ cây, chim muông... đều mang dáng khắc khổ, nhỏ bé, tội nghiệp. Chỉ qua âm thanh tên gọi các loại cây, các loại chim trong thơ Hoàng Vũ Thuật cũng gợi lên điều đó. Cây thì cây "xương rồng", cây "chim chim". Chim thì chim "cheo cheo", chim "ri rí"... Trong thơ anh ta bắt gặp rất nhiều chữ "gầy": "Bóng mẹ gầy che nắng nôi",

"em gầy đi những tưởng có ngày không gầy nữa", "Đồng cát lấp hạt phù sa gầy", "Ngưng trên cây trên lá khô gầy"... Chỉ qua hạt cát bình thường anh đã phát hiện ra bao nhiêu nghịch lý: cát gần gũi thân quen mà vẫn ngỡ ngàng mới lạ, cát vừa dễ hiểu lại vừa khó hiểu, rất nhỏ bé nhưng lại rất lớn lao:

Nhỏ nhoi như hạt cát
Còn gì nhỏ hơn không
Triệu triệu năm sau trước
Đã kết thành nước non!
                   (Cát ở đảo)

Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó, Hoàng Vũ Thuật hơi sa đà khi nói về cát. Vì thế anh khó lòng tránh khỏi việc lặp lại chính mình. Cứ nói mãi về cát dù biến hóa đến mấy cũng dễ gây cảm giác nhàm chán, lẩn quẩn. May mà đến Gửi những ngọn sóng anh biết dừng lại và chuyển hướng một cách kịp thời. Từ "cát" - một cái gì rất thật được cảm nhận bằng trực giác cụ thể, đến "sóng" - một cái gì lay động lan tỏa là bước đi của thơ Hoàng Vũ Thuật. Đi xa cái cụ thể đòi hỏi người viết phải hướng sâu vào thế giới nội tâm. Có người cho rằng thơ anh thiên về triết lý. Nói như vậy không phải không có cơ sở. Nhưng dạng thơ như thế không nhiều và ít thành công. Bài thơ "Gửi mẹ" có những câu rất hay như "khoảng sáng trên đầu như mắt mẹ lo âu". Tiếc là toàn bài chất giáo huấn hơi lộ. Triết lý mà anh rút ra trong bài thơ không có gì mới. Điều đó người ta đã nói quá nhiều. Và tôi tin rằng cả mẹ nữa, mẹ cũng không hài lòng khi anh cố giải thích cho mẹ hiểu rằng:

Mẹ ơi, nếu trên đưng bằng phẳng
Đâu dễ dàng đến được tình yêu

Ở bài thơ "Đề tặng" anh ghi lại một kỷ niệm khá cảm động. Những cái tính ưa triết lý của anh đã làm phương hại ít nhiều đến không khí chung của bài thơ. Trong lúc cô em gái của người du kích đang khóc vì thương tiếc bên mộ anh trai mình, lẽ ra cần im lặng thì anh lại an ủi bằng giọng triết lý khô khan:

Đừng khóc em, những người chết có cách sống riêng
Như những người sống mà đang chết
Cũng một cách riêng


Nhưng những câu thơ như thế không nhiều. Phần lớn thơ Hoàng Vũ Thuật - đặc biệt ở tập Gửi những ngọn sóng là thơ tâm trạng. Khi đã qua quá nửa cuộc đời anh thường giật mình nghĩ đến thời gian. Thời gian để lại trong anh nhiều băn khoăn day dứt:

Những giận dỗi để nhiều đêm thức trắng,
Ta đâu biết thời gian nghiệt lắm
Cứ lặng lẽ trôi ngoài cửa s vô tư
Áo ta mang bạc trắng từ bao giờ
                   (Với thời gian)

Ngày tháng quay về, ngày tháng ra đi
Tóc anh nhòa trong chiều mây trắng

                        (Ngày tháng)

Rồi con ra đi cùng tháng ngày lầm lũi
Mẹ đứng giữa vườn như bóng mát chờ con Và tháng ngày cứ thế dày hơn
Và cứ thế con vẫn là thơ dại
                   (Ngày giờ yên tĩnh)

Hoàng Vũ Thuật có nhu cầu bày giải. Anh muốn mọi người hiểu và cảm thông với anh. Bao giờ anh cũng hướng tới một đối tượng trữ tình cụ thể. Anh thường tâm sự giải bày với một người nào đó. Người đó có thể là mẹ anh, có thể là người đã khuất, là bạn bè... Nhưng đối tượng trữ tình chủ yếu của anh là "em". Ở tập thơ đầu "em" xuất hiện còn thưa thớt, tập thứ hai "em" đã chiếm gần một nửa số bài, đến tập thơ thứ ba "em" hầu như có mặt khắp nơi. Trước đây, anh viết nhiều về cát, bây giờ anh viết nhiều cho em. Chọn "em" làm đối tượng trữ tình là phù hợp với cái tạng "đa tình" như lời tự thú của anh trong "Bài ca ban mai". Với Hoàng Vũ Thuật đối tượng này giúp anh bộc lộ tâm trạng dễ dàng hơn. Qua "em" anh muốn nói với mọi người. Em của anh thường mơ hồ nửa thực, nửa hư:

Em như con chim nhỏ của tôi
Vừa đậu đó đã biến vào sắc lá

          (Đi với em trên bãi sông Hồng)

Em rất gần, lại rất xa xôi
Thật đến thế mà lung linh thế

                   (Cổ tích Hội An)

Em như là lá ấy
Vừa xanh lên cuối trời
Che hồn tôi một nửa
Qua đêm đầy sương rơi

                   (Không đề)

Thơ tình của Hoàng Vũ Thuật đằm địa, hơi bóng gió. Anh ít gây ấn tượng mạnh, ít có những tứ thơ táo bạo. Nhiều khi anh hơi lạm dụng "nhân vật trữ tình" ấy. Người đọc có cảm giác anh nói với em hơi nhiều và đôi lúc không đúng chỗ. Chẳng hạn viết về Vực Tròn, anh cũng nói đến "em", viết về Hồng Gai cũng có "em", viết về Cát ở đảo anh cũng không quên nhắc đến "em". Ở một số bài thơ, hình như anh cố gắng cái riêng với cái chung nên thơ tình của anh hơi thiếu tự nhiên, hơi "điệu đà" một chút. Bài "Cỏ" của anh là một trong những bài thơ hay. Cỏ gắn liền với kỷ niệm, cỏ gắn liền với tình yêu. Cái mạch thơ đang tuôn trào thì bất ngờ anh chuyển giọng:

Đất nước mình như lá cỏ tiên
Xanh hiền hậu không đầu, không cuối
Bom đạn bao đời không bật gốc nổi
Cỏ bay lên tia lửa mặt trời


Giá như không có khổ thơ ấy bài thơ sẽ rất hoàn chỉnh, rất tự nhiên. Cái khổ thơ anh cố đưa vào để nhằm nâng cao tính tư tưởng đã phần nào phá mất cái thế hoàn chỉnh, tự nhiên của cả bài thơ.

Hoàng Vũ Thuật ít có những bài đối thoại trực tiếp với cuộc sống hiện tại. Tuy vậy, đây đó chúng ta vẫn bắt trong thơ anh những lời phát biểu gián tiếp. Muốn hiểu thơ anh phải nghiền ngẫm qua nhiều tầng nghĩa. Anh có kiểu nói riêng của mình rủ rỉ, lặng lẽ, thầm lặng. Khi anh viết: "Ai mơ màng dưới tán những chiếc ô", chỉ nghĩ đơn thuần anh đang tả thực. Câu thơ ám chỉ những kẻ chuyên sống nhờ "ô dù" của những người có quyền thế. Khi anh viết:

Cỏ gai chích đến tê người
Thành than, cỏ gấu lại mọc
Cỏ ống đâm, vỡ củ khoai
Cỏ tranh ăn cằn khô đất


Thì chớ vội nghĩ anh chỉ nói đến cỏ - Chẳng qua anh muốn mượn cỏ để nói đến bọn sâu mọt trong xã hội hiện nay. Bài "Lau trắng" có những câu buộc chúng ta phải suy nghĩ về trách nhiệm của mình trước những người đã hy sinh vì Tổ quốc:

Ở đâu đồng bãi biếc thanh
Ở đâu ngọn khói chiều xanh với chiều
Đâu con đường của tình yêu
Tím màu hoa tím, rất nhiều là đâu
Mà đây lau nối mùa lau
Ứa từ sông thấp, núi cao chẳng ngừng!


Có thể có người không ưa cách nói của anh. Đó là quyền của mỗi người. Nhưng đừng vì thế mà bắt anh phải viết như người khác. Nếu ai cũng viết như nhau thì đâu còn bản sắc riêng nữa. Mà không có bản sắc nghĩa là không tồn tại. Hoàng Vũ Thuật tự nhận một cách khiêm tốn:

Tôi chẳng là con tàu vượt sóng
Xin lặng thầm một chiếc neo


Nhưng chính nhờ chiếc mỏ neo ấy mà không ít thơ anh đã neo lại được trong tâm hồn những độc giả tâm đắc. "Bài hát trái dâu da" của anh tôi thuộc lúc nào không biết nữa. Vào những đêm yên tĩnh, tôi như chợt nghe "cánh chim không tuổi" của anh bay khắp bầu trời:

Cất tiếng ca lảnh lói
Dâu da, dâu da ơi!


Ba tập thơ trong gần hai mươi năm lao động nghệ thuật cần cù, bền bỉ đâu phải là nhiều. Nhưng so với bạn bè cùng lứa đang xếp hàng chờ đến lượt mình (trong lúc người ta xem thơ như một món hàng thừa ế) thì anh quả là người may mắn. Hơn nữa cuộc đời dành cho thơ anh đúc kết như một chân lý:

Phải tận cùng nước mắt
Tận cùng nỗi khổ đau
Cho câu thơ được thật
Nửa hồn tôi phía sau...


Với điều tâm niệm ấy chắc chắn anh sẽ không chịu dừng lại ở những gì đã có.

Huế, ngày 10-7-1987.
M.V.H
(SH28/12-87)

-------------------
(1) Nhân đọc "Những bông hoa trên cát", "Thơ viết từ mùa hạ", "Gửi những ngọn sóng" Thơ Hoàng Vũ Thuật.








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.