MAI VĂN HOAN
Không hiểu sao nghĩ về Hoàng Vũ Thuật tôi lại nhớ đến Những bông hoa trên cát; mặc dù anh đã có thêm Thơ viết từ mùa hạ và Gửi những ngọn sóng.
Ảnh: internet
Ở đây, tôi không có ý nói rằng: Những bông hoa trên cát là tập thơ trội nhất của anh. Tôi muốn nói: Những bông hoa trên cát là cách gọi đúng nhất, gợi nhất về thơ Hoàng Vũ Thuật. Thơ anh là những chấm trắng đính như những ngôi sao trên thân cây xương rồng thô tháp và đầy gai nhọn. Những bông hoa ấy không sặc sỡ, không ngát hương chỉ mỏng mảnh dung dị nhưng lại có sức sống bền dai. Thoạt nhìn có thể chưa thích lắm, song ngắm kỹ mới thấy quý cái màu kết tinh từ cát ấy.
Nếu được trình bày bìa thơ Hoàng Vũ Thuật, tôi sẽ lấy màu cát trắng làm nền. Trên cái nền bằng cát là những cây xương rồng "đứng chen nhau như tháp dựng giữa trời" điểm những bông hoa cũng trắng như màu cát. Hoàng Vũ Thuật lớn lên ở một vùng quê nghèo. Cuộc đời anh gắn liền với cát. Về Đồng Hới, anh nhìn thấy: "bên kia sông bãi cát nắng lên đầy", qua Bạch Bằng anh nhìn thấy những dãy nhà, "loi thoi trên doi cát", đi dọc bờ sông Hồng, anh cũng thấy "bãi cát lô xô lụa trắng", cho đến khi ra đảo, cát vẫn bám theo anh:
Gió đi qua đỉnh cát
Thành gợn sóng mặt hồ
Trắng một màu da diết
Quen rồi còn ngẩn ngơ
Vì sao đi đâu anh cũng nhìn thấy cát, anh cũng gặp cát, anh cũng nói về cát như vậy? Dễ hiểu thôi, bởi như anh đã nói "Tôi lớn lên cát ở cùng tôi, tôi với cát gần nhau máu thịt". Nơi đó, anh có một căn nhà nhỏ, có "trái bát hoang đỏ mọng dưới lùm cây", có "gốc khế đầu mùa hoa tím không hay", có tiếng cu gáy, thân cau già, có người mẹ hiền mảnh khảnh "hạt cát dấu trong nếp nhăn vầng trán", có người bạn đời tảo tần của anh ngồi chải tóc bên thềm "bao hạt cát rơi cùng tóc rối", có cả con chim cheo cheo đẻ trứng bỏ quên "cát ấm ngày thu nuôi trứng nở"… Bởi vậy, ít ai hiểu cát bằng anh, ít ai yêu cát bằng anh, ít ai thủy chung với cát như anh. Hoàng Vũ Thuật nghe cả "hơi thở" của cát, nghe cả "tiếng nói" của cát "bằng âm vang cát xát dưới chân mình". Trên cái xứ sở mà cát có thể "luộc chín trứng gà", gió Lào "uốn cong ván gỗ" ấy người, vật, cỏ cây, chim muông... đều mang dáng khắc khổ, nhỏ bé, tội nghiệp. Chỉ qua âm thanh tên gọi các loại cây, các loại chim trong thơ Hoàng Vũ Thuật cũng gợi lên điều đó. Cây thì cây "xương rồng", cây "chim chim". Chim thì chim "cheo cheo", chim "ri rí"... Trong thơ anh ta bắt gặp rất nhiều chữ "gầy": "Bóng mẹ gầy che nắng nôi",
"em gầy đi những tưởng có ngày không gầy nữa", "Đồng cát lấp hạt phù sa gầy", "Ngưng trên cây trên lá khô gầy"... Chỉ qua hạt cát bình thường anh đã phát hiện ra bao nhiêu nghịch lý: cát gần gũi thân quen mà vẫn ngỡ ngàng mới lạ, cát vừa dễ hiểu lại vừa khó hiểu, rất nhỏ bé nhưng lại rất lớn lao:
Nhỏ nhoi như hạt cát
Còn gì nhỏ hơn không
Triệu triệu năm sau trước
Đã kết thành nước non!
(Cát ở đảo)
Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó, Hoàng Vũ Thuật hơi sa đà khi nói về cát. Vì thế anh khó lòng tránh khỏi việc lặp lại chính mình. Cứ nói mãi về cát dù biến hóa đến mấy cũng dễ gây cảm giác nhàm chán, lẩn quẩn. May mà đến Gửi những ngọn sóng anh biết dừng lại và chuyển hướng một cách kịp thời. Từ "cát" - một cái gì rất thật được cảm nhận bằng trực giác cụ thể, đến "sóng" - một cái gì lay động lan tỏa là bước đi của thơ Hoàng Vũ Thuật. Đi xa cái cụ thể đòi hỏi người viết phải hướng sâu vào thế giới nội tâm. Có người cho rằng thơ anh thiên về triết lý. Nói như vậy không phải không có cơ sở. Nhưng dạng thơ như thế không nhiều và ít thành công. Bài thơ "Gửi mẹ" có những câu rất hay như "khoảng sáng trên đầu như mắt mẹ lo âu". Tiếc là toàn bài chất giáo huấn hơi lộ. Triết lý mà anh rút ra trong bài thơ không có gì mới. Điều đó người ta đã nói quá nhiều. Và tôi tin rằng cả mẹ nữa, mẹ cũng không hài lòng khi anh cố giải thích cho mẹ hiểu rằng:
Mẹ ơi, nếu trên đường bằng phẳng
Đâu dễ dàng đến được tình yêu
Ở bài thơ "Đề tặng" anh ghi lại một kỷ niệm khá cảm động. Những cái tính ưa triết lý của anh đã làm phương hại ít nhiều đến không khí chung của bài thơ. Trong lúc cô em gái của người du kích đang khóc vì thương tiếc bên mộ anh trai mình, lẽ ra cần im lặng thì anh lại an ủi bằng giọng triết lý khô khan:
Đừng khóc em, những người chết có cách sống riêng
Như những người sống mà đang chết
Cũng một cách riêng
Nhưng những câu thơ như thế không nhiều. Phần lớn thơ Hoàng Vũ Thuật - đặc biệt ở tập Gửi những ngọn sóng là thơ tâm trạng. Khi đã qua quá nửa cuộc đời anh thường giật mình nghĩ đến thời gian. Thời gian để lại trong anh nhiều băn khoăn day dứt:
Những giận dỗi để nhiều đêm thức trắng,
Ta đâu biết thời gian nghiệt lắm
Cứ lặng lẽ trôi ngoài cửa sổ vô tư
Áo ta mang bạc trắng từ bao giờ
(Với thời gian)
Ngày tháng quay về, ngày tháng ra đi
Tóc anh nhòa trong chiều mây trắng
(Ngày tháng)
Rồi con ra đi cùng tháng ngày lầm lũi
Mẹ đứng giữa vườn như bóng mát chờ con Và tháng ngày cứ thế dày hơn
Và cứ thế con vẫn là thơ dại
(Ngày giờ yên tĩnh)
Hoàng Vũ Thuật có nhu cầu bày giải. Anh muốn mọi người hiểu và cảm thông với anh. Bao giờ anh cũng hướng tới một đối tượng trữ tình cụ thể. Anh thường tâm sự giải bày với một người nào đó. Người đó có thể là mẹ anh, có thể là người đã khuất, là bạn bè... Nhưng đối tượng trữ tình chủ yếu của anh là "em". Ở tập thơ đầu "em" xuất hiện còn thưa thớt, tập thứ hai "em" đã chiếm gần một nửa số bài, đến tập thơ thứ ba "em" hầu như có mặt khắp nơi. Trước đây, anh viết nhiều về cát, bây giờ anh viết nhiều cho em. Chọn "em" làm đối tượng trữ tình là phù hợp với cái tạng "đa tình" như lời tự thú của anh trong "Bài ca ban mai". Với Hoàng Vũ Thuật đối tượng này giúp anh bộc lộ tâm trạng dễ dàng hơn. Qua "em" anh muốn nói với mọi người. Em của anh thường mơ hồ nửa thực, nửa hư:
Em như con chim nhỏ của tôi
Vừa đậu đó đã biến vào sắc lá
(Đi với em trên bãi sông Hồng)
Em rất gần, lại rất xa xôi
Thật đến thế mà lung linh thế
(Cổ tích Hội An)
Em như là lá ấy
Vừa xanh lên cuối trời
Che hồn tôi một nửa
Qua đêm đầy sương rơi
(Không đề)
Thơ tình của Hoàng Vũ Thuật đằm địa, hơi bóng gió. Anh ít gây ấn tượng mạnh, ít có những tứ thơ táo bạo. Nhiều khi anh hơi lạm dụng "nhân vật trữ tình" ấy. Người đọc có cảm giác anh nói với em hơi nhiều và đôi lúc không đúng chỗ. Chẳng hạn viết về Vực Tròn, anh cũng nói đến "em", viết về Hồng Gai cũng có "em", viết về Cát ở đảo anh cũng không quên nhắc đến "em". Ở một số bài thơ, hình như anh cố gắng cái riêng với cái chung nên thơ tình của anh hơi thiếu tự nhiên, hơi "điệu đà" một chút. Bài "Cỏ" của anh là một trong những bài thơ hay. Cỏ gắn liền với kỷ niệm, cỏ gắn liền với tình yêu. Cái mạch thơ đang tuôn trào thì bất ngờ anh chuyển giọng:
Đất nước mình như lá cỏ tiên
Xanh hiền hậu không đầu, không cuối
Bom đạn bao đời không bật gốc nổi
Cỏ bay lên tia lửa mặt trời
Giá như không có khổ thơ ấy bài thơ sẽ rất hoàn chỉnh, rất tự nhiên. Cái khổ thơ anh cố đưa vào để nhằm nâng cao tính tư tưởng đã phần nào phá mất cái thế hoàn chỉnh, tự nhiên của cả bài thơ.
Hoàng Vũ Thuật ít có những bài đối thoại trực tiếp với cuộc sống hiện tại. Tuy vậy, đây đó chúng ta vẫn bắt trong thơ anh những lời phát biểu gián tiếp. Muốn hiểu thơ anh phải nghiền ngẫm qua nhiều tầng nghĩa. Anh có kiểu nói riêng của mình rủ rỉ, lặng lẽ, thầm lặng. Khi anh viết: "Ai mơ màng dưới tán những chiếc ô", chỉ nghĩ đơn thuần anh đang tả thực. Câu thơ ám chỉ những kẻ chuyên sống nhờ "ô dù" của những người có quyền thế. Khi anh viết:
Cỏ gai chích đến tê người
Thành than, cỏ gấu lại mọc
Cỏ ống đâm, vỡ củ khoai
Cỏ tranh ăn cằn khô đất
Thì chớ vội nghĩ anh chỉ nói đến cỏ - Chẳng qua anh muốn mượn cỏ để nói đến bọn sâu mọt trong xã hội hiện nay. Bài "Lau trắng" có những câu buộc chúng ta phải suy nghĩ về trách nhiệm của mình trước những người đã hy sinh vì Tổ quốc:
Ở đâu đồng bãi biếc thanh
Ở đâu ngọn khói chiều xanh với chiều
Đâu con đường của tình yêu
Tím màu hoa tím, rất nhiều là đâu
Mà đây lau nối mùa lau
Ứa từ sông thấp, núi cao chẳng ngừng!
Có thể có người không ưa cách nói của anh. Đó là quyền của mỗi người. Nhưng đừng vì thế mà bắt anh phải viết như người khác. Nếu ai cũng viết như nhau thì đâu còn bản sắc riêng nữa. Mà không có bản sắc nghĩa là không tồn tại. Hoàng Vũ Thuật tự nhận một cách khiêm tốn:
Tôi chẳng là con tàu vượt sóng
Xin lặng thầm một chiếc neo
Nhưng chính nhờ chiếc mỏ neo ấy mà không ít thơ anh đã neo lại được trong tâm hồn những độc giả tâm đắc. "Bài hát trái dâu da" của anh tôi thuộc lúc nào không biết nữa. Vào những đêm yên tĩnh, tôi như chợt nghe "cánh chim không tuổi" của anh bay khắp bầu trời:
Cất tiếng ca lảnh lói
Dâu da, dâu da ơi!
Ba tập thơ trong gần hai mươi năm lao động nghệ thuật cần cù, bền bỉ đâu phải là nhiều. Nhưng so với bạn bè cùng lứa đang xếp hàng chờ đến lượt mình (trong lúc người ta xem thơ như một món hàng thừa ế) thì anh quả là người may mắn. Hơn nữa cuộc đời dành cho thơ anh đúc kết như một chân lý:
Phải tận cùng nước mắt
Tận cùng nỗi khổ đau
Cho câu thơ được thật
Nửa hồn tôi phía sau...
Với điều tâm niệm ấy chắc chắn anh sẽ không chịu dừng lại ở những gì đã có.
Huế, ngày 10-7-1987.
M.V.H
(SH28/12-87)
-------------------
(1) Nhân đọc "Những bông hoa trên cát", "Thơ viết từ mùa hạ", "Gửi những ngọn sóng" Thơ Hoàng Vũ Thuật.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.