NGUYỄN THẾ
Các tác phẩm Lục Vân Tiên ở Bảo tàng tỉnh Sơn La
Năm 2010, khi tham gia nhóm làm phần mềm chữ Nôm - Thái - Chăm, một đề tài khoa học của Trung tâm Công nghệ Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế, tôi và Phan Anh Dũng, chuyên viên lập trình được cử đi khảo sát và thu thập tài liệu chữ Thái cổ ở các tỉnh Nghệ An, Sơn La… Là người được đào tạo chuyên ngành về bảo tồn bảo tàng, hội viên Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, tôi đã được Cục Di sản Văn hóa cấp giấy giới thiệu đến Bảo tàng tỉnh Sơn La để thực hiện công việc. Đến Sơn La lần đó, tôi đã được các anh chị ở Bảo tàng giúp đỡ, có sự phối hợp của anh Cà Chung và chị Lò Mai Cương là những chuyên gia đang làm phần mềm chữ Thái ở Sơn La.
Trong lần khảo sát đó, tôi đã chú ý đến thể loại văn học người Kinh được viết bằng chữ Thái cổ đang được lưu giữ ở kho bảo tàng với những đề tựa (được ghi ở bìa bọc ở bên ngoài) như: Tống Trân - Cúc Hoa (còn được ghi là Túng Tân, Trạng Nguyên); Lưu Bình - Dương Lễ; Trương Viên, Hoàng Trừu… Đây là những truyện Nôm khuyết danh lưu hành trong dân gian từ xa xưa. Đặc biệt, truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng được phóng tác bằng chữ Thái cổ và lưu hành trong cộng đồng người Thái ở vùng Tây Bắc.
Lần này, khi tham gia trại sáng tác do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm hỗ trợ sáng tác Văn học Nghệ thuật của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức ở Đại Lải, Vĩnh Phúc, tôi đã xin giấy giới thiệu của Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế đến Sơn La khảo sát lại những tác phẩm văn học của người Kinh viết bằng chữ Thái đang được bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Sơn La.
Được sự giúp đỡ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, và Bảo tàng tỉnh Sơn La, lần này tôi đã tiếp cận được nhiều bản viết tay bằng chữ Thái cổ của các tác phẩm văn học của người Kinh nêu ở trên và một số tác phẩm văn học có nguồn gốc, cốt truyện của Trung Quốc (được lưu truyền ở Việt Nam) như: Tam quốc, Chiêu Quân cống Hồ, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài… Lần này tôi quan tâm hơn hết đối với tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được viết bằng chữ Thái cổ. Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là người vừa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) vinh danh là nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nhân loại.
Tác phẩm Lục Vân Tiên là một truyện thơ chữ Nôm (viết theo thể lục bát), được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào đầu những năm 50 của thế kỷ XIX. Tác phẩm này đã được Trương Vĩnh Ký xuất bản lần đầu vào năm 1889. Lục Vân Tiên là một trường thi tiểu thuyết dài hơn 2000 câu, viết về trung hiếu tiết nghĩa; luân thường đạo lý của con người thông qua các mối quan hệ giữa vua tôi, cha mẹ và con cái, anh em, bạn bè, chồng vợ..., đề cao tinh thần chính nghĩa, cứu khốn phò nguy; lên án những thói hư, tật xấu của con người trong xã hội phong kiến thời bấy giờ. Qua tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả muốn gửi gắm ước mơ vươn tới lẽ sống chân - thiện - mỹ, con người được sống hạnh phúc trong một môi trường xã hội đầy tình nhân ái và công bằng…
Ngôn ngữ của Lục Vân Tiên mộc mạc, bình dị, chân chất mà thẳng thắn, đây chính là nét văn hóa riêng của người dân Nam bộ. Lục Vân Tiên là một truyện thơ hay viết theo lối kể chuyện, văn chương gần gũi với cuộc sống đời thường. Tác giả đã lột tả được nội tâm của từng nhân vật trong truyện một cách khéo léo, phân biệt rạch ròi giữa cái thiện, cái ác; đồng tình với thuyết nhân quả, phù hợp với tâm lý của người dân. Vì vậy, tác phẩm Lục Vân Tiên đã được lưu truyền rộng khắp vùng đất Nam bộ và Nam Trung bộ. Không ai ở vùng đất này không biết đến truyện Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Văn chương bình dân trong Lục Vân Tiên đã tạo cho truyện thơ này nhanh chóng hòa vào dòng văn học dân gian Việt Nam và lan tỏa khắp các vùng miền trong cả nước.
Địa bàn tỉnh Sơn La nằm ở vùng Tây Bắc, cách Gia Định - Bến Tre (nơi ra đời của tác phẩm Lục Vân Tiên) khoảng gần 2000 km, nhưng từ hơn 100 năm trước, Lục Vân Tiên, tác phẩm đỉnh cao của văn học Nam bộ, đã lan tỏa tận đến vùng biên viễn của Tổ quốc. Nơi đây, tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã được phóng tác thành truyện thơ của người Thái. Truyện thơ Lục Vân Tiên bằng tiếng Thái đã được lưu hành rộng khắp trong cộng đồng dân tộc Thái bằng hình thức diễn xướng thơ (khắp xư). Từ đó tác phẩm thơ “phóng tác” Lục Vân Tiên đã nhanh chóng hòa nhập vào dòng chảy văn hóa dân gian của cộng đồng người Thái ở Việt Nam.
Hiện nay, Bảo tàng tỉnh Sơn La đang bảo quản hơn 10 tác phẩm Lục Vân Tiên viết bằng chữ Thái cổ với nhiều tên gọi như: Quám(1) Vân Tiên, Lục Vân Tiên, Vân Tiên… có tập được đóng gộp chung với truyện Trạng Công; Hoàng Trừu, Chiêu Quân… Các tập Lục Vân Tiên ở đây được viết trên giấy dướng và giấy dó với nhiều khổ giấy khác nhau: 14 x 24cm, 16 x 29cm, 21 x 21cm, 27 x 34cm, 20 x 26cm, 15 x 27cm, 21 x 34cm, 15 x 24cm…, dày nhất là tập Quám Vân Tiên mang số hiệu GI 128, viết bằng giấy dó mỏng, khổ 16 x 29, 170 trang. Như vậy, tác phẩm Lục Vân Tiên và một số tác phẩm văn học người Kinh khác viết bằng chữ Thái cổ đã từng được người dân sao chép thành nhiều bản và lưu hành rộng khắp vùng Tây Bắc.
Gần đây, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Sơn La đã xuất bản tác phẩm: Truyện thơ phóng tác dân gian Thái vùng Tây Bắc Việt Nam(2) của Lò Thanh Hoàn, gồm 2 tập là việc làm đáng trân trọng. Tập I của sách này có giới thiệu tác phẩm Quám Vân Tiên, phóng tác từ truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
![]() |
Truyện thơ Lục Vân Tiên viết bằng chữ Thái cổ, lưu ở Bảo tàng tỉnh Sơn La |
Tác phẩm phóng tác để sử dụng trong diễn xướng thơ thường có câu dạo đầu khi trình diễn: “Làm quan lớn, hãy biết chăm lo cho đất nước và làm theo luật lệ vua ban”, sau đó mới đi vào phần nội dung chính. Mở đầu diễn xướng, người ta thường tạo sự hấp dẫn cho người nghe bằng một đoạn thơ có nội dung tình tự, ướt át:
“Giờ xin kể về một tạo(3) chàng tên là Lục Vân Tiên ấy,
Tạo theo thầy học đã ba thu đầy tháng,
Đã thông thạo luân lý văn chương,
Tạo nghe nói vua lớn mở khoa thi kén chọn,
Trong lòng nghĩ thời làm quan chức trọng đã đến rồi,
Tạo mới đi xin thầy được đi thi,
Nhưng trong lòng lưu luyến một cô nàng,
Tạo tìm đến nói lời ly biệt,
Anh thương em nhưng giờ phải chia tay mỗi người một phương,
Nếu như có thương thật thì nàng hãy viết vài dòng chữ.
Khi ấy tạo nói rồi nàng liền cầm bút viết thành thơ,
Nét chữ đẹp khác nào then đúc,
Như hoa đào nở ngoài vườn ngào ngạt thơm hương:
“Sau này nếu được làm quan có quyền cao chức trọng,
Đừng quên người tình nghĩa sẽ đến nương nhờ chàng nhé”
Đưa đến tận tay cho chàng đón nhận,
Nỗi vui dâng trào bật thành tiếng tơ lòng trao hẹn:
“Rằng xin thề với đấng thần ở trên trời cao,
Đến khi nào then bun làm trời đông rực sáng,
Anh sẽ xin được cưới em để được sóng đôi em hỡi”.
Khi ấy tạo cũng viết xong rồi cầm đến trao em,
Nói chuyện xong rồi hai người thề khấn,
Mãi mãi bên nhau nghĩa ta đừng bỏ,
Tạo kéo nàng về dang vòng tay ấm áp,
Yêu thương nhau mà nước mắt tuôn trào…”
Tiếp theo là phần nội dung chính của tác phẩm, người phóng tác vẫn cố gắng bám sát cốt truyện để cho người thưởng thức hiểu biết đầy đủ nội dung của nguyên tác:
… …
“Lục Vân Tiên nhận được thư cha là Lục công,
Giục chàng nhanh nhanh quay lại về nhà,
Số không may mẹ chàng đã mất,
Bỏ chồng con lên với tổ tiên,
Tin buồn quá Vân Tiên nằm vật vã khóc than,
Gọi người hầu đến gần cùng chia sẻ
Tôi mong được chức trọng để mẹ cha nương tựa không có,
Lại buồn đau đến nỗi tang thương
Tạo như người chết đi một nửa,
Tạo khóc nhiều đến nỗi mù cả hai mắt”…
Truyện thơ mang tính tự sự, ngôn ngữ truyện thơ giàu hình ảnh và nhịp điệu, dễ đi vào lòng người. Phần lớn cốt truyện của các truyện thơ Nôm người Kinh đều có 3 trường đoạn: gặp gỡ - biến cố - đoàn viên, với kết thúc có hậu theo thuyết nhân quả ở hiền gặp lành/ở ác gặp ác; “ác giả ác báo”… Đây là những cốt truyện phù hợp với tâm lý của đồng bào dân tộc Thái và cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Anh Cà Chung, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ở Sơn La đã trao đổi với tôi rằng: “Người Thái có chữ viết riêng từ lâu đời. Với lại từ xa xưa họ đã có thói quen kể chuyện bằng diễn xướng thơ. Phong trào sáng tác thơ, truyện thơ (của người Thái) đã phát triển khá sớm, song các nội dung (cốt chuyện) của dân tộc Thái không đủ thỏa mãn sức sáng tạo của họ. Vì thế, họ đã tìm đến cốt chuyện của các dân tộc khác”.
Những tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu của người Kinh đã được người Thái phóng tác gồm: Nhị Độ Mai (Quám Mai công), Tống Trân - Cúc Hoa (Túng Tân, Chãng Nghiên, Trạng Nguyên), Hoàng Trừu (Trạng Tư), Lục Vân Tiên (Quám Vân Tiên), Truyện Thúy Kiều (Quám Thư Kiêu, Thư Cẫu), Phạm Công (Phạm Tải - Ngọc Hoa), Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Viên…
Khi đọc tóm lược cốt truyện ở một số tác phẩm truyện thơ phóng tác bằng chữ Thái cổ đang được bảo quản ở Bảo tàng tỉnh Sơn La, tôi thấy một số truyện thơ có ghi niên đại như: Lưu Bình - Dương Lễ viết vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824); Trạng nguyên (Tống Trân - Cúc Hoa) viết vào năm Tự Đức thứ 19 (1866)… Như vậy, người Thái đã phóng tác truyện thơ Nôm của người Kinh cách đây gần 200 năm và có thể sớm hơn. Truyện thơ phóng tác bằng chữ Thái đã được cộng đồng người dân Thái ở vùng Tây Bắc đón nhận, yêu quý trân trọng như các tác phẩm thơ chính thống sáng tác theo cốt truyện của người Thái từ xa xưa như: Khun Lú - Nàng Ủa, Sống chụ son xao, Tàn chụ sống sương…
Ngoài tác phẩm Lục Vân Tiên được phóng tác bằng chữ Thái cổ đang được bảo quản ở Bảo tàng Sơn La, chắc chắn còn có nhiều tác phẩm thơ phóng tác từ những tác phẩm văn học người Kinh được lưu giữ trong hệ thống thư viện, trung tâm lưu trữ trong và ngoài nước; trong cộng đồng các dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc và cả người Thái ở Nghệ An, Thanh Hóa...
Dưới thời phong kiến, các quan lại, trí thức của đồng bào dân tộc thiểu số đều phải biết chữ Hán Nôm để giao tiếp, thi cử và sử dụng trong thủ tục hành chính với triều đình. Trong lời giới thiệu ở tập II cuốn Truyện thơ phóng tác dân gian Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, tác giả Lò Thanh Hoàn đã viết: “Tiếng Kinh (Việt) là tiếng của vua, biết tiếng của vua là điều bắt buộc, đồng thời cũng là niềm tự hào, hãnh diện của các bậc quan lại, trí thức trong giao tiếp”(4). Vì vậy, việc xuất hiện các tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm của người Việt ở các vùng người Thái và các dân tộc thiểu số khác ở Tây Bắc là điều dễ hiểu. Những tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… và những truyện Nôm khuyết danh của người Kinh đã được các nho sĩ, quan lại người Thái chọn lọc và phóng tác thành những truyện thơ chữ Thái để phục vụ cho nhu cầu đời sống tinh thần của cộng đồng người Thái ở khắp vùng Tây Bắc và các địa phương lân cận.
Ngoài chữ Hán, một số dân tộc thiểu số khác ở Tây Bắc còn sáng tạo chữ viết của dân tộc mình từ chữ Hán như người Tày, Dao… Vì vậy, trong kho tàng ngôn ngữ của Việt Nam, ngoài chữ Nôm Việt, còn có chữ Nôm Tày, Nôm Dao... Người Việt dựa trên cơ sở chữ Hán để sáng tạo ra chữ Nôm cách đây hàng ngàn năm. Chính từ chữ Nôm ấy mới có tác phẩm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và nhiều tác phẩm văn chương viết bằng chữ Nôm khác làm phong phú thêm kho tàng văn học của nước nhà.
Truyện thơ chữ Thái phóng tác từ những tác phẩm chữ Nôm là di sản văn hóa quý giá của đất nước, cần phải được các cơ quan chức năng quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị. Hiện nay, kho tàng sách viết bằng chữ Thái cổ ở Tây Bắc và vùng lân cận vẫn còn đến hàng ngàn cuốn tập trung vào các thể loại chính như: lịch sử, văn học và nhiều thể loại phong phú khác như: nông nghiệp, lịch pháp, y học; các sách về tín ngưỡng như: xem bói, xem ngày giờ tốt xấu, bùa chú, pháp thuật, văn cúng... Những năm qua, ngành văn hóa đã triển khai đề án “Bảo quản, dịch thuật, khai thác, phát huy di sản văn hóa sách chữ Thái cổ” ở Sơn La và một số địa phương lân cận. Từ kinh phí của đề án, các đơn vị đã tổ chức dịch thuật từ chữ Thái cổ sang chữ Thái thông dụng hiện nay và dịch sang chữ quốc ngữ; Biên tập, khảo cứu, hiệu đính, chỉnh lý các bản dịch; Khai thác, phổ biến và phát huy giá trị vốn sách Thái cổ; Trưng bày giới thiệu sách chữ Thái cổ (bản gốc) tại Bảo tàng tỉnh; Chọn lựa xuất bản nội dung một số cuốn sách chữ Thái cổ tiêu biểu, có giá trị để phổ biến rộng rãi trong nhân dân; Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian và các tầng lớp nhân dân về giá trị của sách chữ Thái cổ, nhằm nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một, góp phần giữ gìn, phát huy vốn di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Việc ứng dụng số hóa trong việc bảo tồn di sản văn hóa đối với sách chữ Thái cổ không những tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, phát huy giá trị di sản đối với các tổ chức, cơ quan văn hóa, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trong nước mà còn là phương tiện để kết nối, giao lưu văn hóa với thế giới.
N.T
(TCSH45SDB/06-2022)
-------------------------------
(1) Quám: Sách, truyện.
(2) Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Sơn La, 2016.
(3)Tạo: Danh xưng chỉ người quyền quý, chức sắc… Con trai nhà quyền quý hay có chức sắc được gọi là tạo; con gái của họ được gọi là nàng.
(4) Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Sơn La, 2018.
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.