TRẦN NHUẬN MINH
Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).
Ảnh: internet
Tôi xuất thân trong một gia đình khoa bảng lâu đời, nhưng đến ông nội tôi làm ông đồ, phải dạy học ở làng xã xa, thì gia cảnh đã sa sút lắm. 14 ngày tuổi, tôi đã được bế về bên ngoại. Năm tôi 2 - 3 tuổi, cậu ruột tôi trông nom tôi để mẹ tôi nhập vào phường cấy thuê cho các làng xã xa, vì mẹ tôi thích thế, chứ nhà ông ngoại tôi làm nghề bốc thuốc nam, thuốc bắc, cũng không đến nỗi thiếu ăn, thiếu mặc. “Mẹ tôi vào phường cấy thuê/ Với câu hát buồn tứ xứ...”. Trong trường ca Đá cháy, tôi đã viết thế. Còn bố tôi chỉ cày thuê cho người làng. Nuôi tôi tiếng là ông bà ngoại, nhưng thực chất là bà cô em ruột ông ngoại tôi, tên là Xuân, thường gọi là bà đồng Xuân, một người mù bẩm sinh, làm nghề bói toán. Cậu ruột tôi là con nuôi của bà, tôi ở với cậu. Bà không nhìn thấy gì, dĩ nhiên, nhưng tôi không hiểu sao bà thuộc Kiều và dạy cho tôi từ năm đó, khi tôi mới 2 - 3 tuổi. Nhiều đêm, tôi đã ngủ thiếp đi trong tiếng lẩm nhẩm đọc Kiều từ trong trí nhớ thập thững của bà. Bà ngoại tôi, mẹ tôi đều thuộc Kiều, nhưng Kiều thấm vào tâm hồn tôi chủ yếu là qua bà cô mù của tôi. Hai bà tôi không hề biết chữ, trong đó có một người mù bẩm sinh, mẹ tôi chưa từng được đi học một ngày, vậy mà vẫn thuộc hàng ngàn câu Kiều, vì sao lại có điều đó và dường như là trường hợp duy nhất, thì đến nay, tôi vẫn không giải thích được. Theo tôi, đó là bí mật của thiên tài. Tác phẩm của các thiên tài bao giờ cũng có một khoảng sáng bí mật mà người đời không bao giờ giải thích được.
Thuở ấy, ở một làng quê xa, đói nghèo và rất hẻo lánh, đêm đen thăm thẳm sâu và im lặng như tờ, trong một ngôi nhà tranh vách đất nhỏ bé, vắng lặng, chỉ có ba người, mà cậu tôi thì đã ngủ ngay từ chập tối, những câu Kiều vang động từ tâm thức của một người mù, mà người đó lại là nữ, rất giầu lòng trắc ẩn, sống đến già không chồng không con… thì nó dội vào tâm hồn thơ trẻ và vô cùng non nớt của tôi với sự “chiếm đoạt”, có thể nói là duy nhất và tuyệt đối... Có lẽ vì thế, mà tôi dám nói rằng: những câu Kiều thấm vào tâm hồn tôi sâu sắc, như nước thấm vào cát, như máu thấm vào da thịt người... Chính nó dần dần hình thành trong tôi một thái độ sống, là yêu thương tôn trọng con người, đặc biệt là lòng thương người, loại bỏ sự hận thù; biết tôn trọng sự thật, nhận ra mọi giá trị, nếu có được, là từ sự thật; là vươn tới cái đẹp, tin vào cuộc đời có nhân có quả. Cứ sống cho tốt, cho trong sáng, biết thương mình thương người, làm việc tận tâm, nhường nhịn, chịu thương chịu khó, ăn ở cho lương thiện… nhất định sẽ được hưởng phúc lành.
Vì vậy mà tôi thuộc Kiều từ năm còn rất nhỏ, và cụ Nguyễn Du đã dạy tôi tất cả những gì để tôi có, trong đời sống tinh thần đến ngày hôm nay.
Tôi không quan tâm lắm đến lai lịch cô Kiều, mà mãi sau này, tôi mới biết là cụ Nguyễn Du đã mượn của Thanh Tâm tài nhân bên nước Trung Hoa. Cái đại tài của cụ là đã Việt hóa được, tất cả mọi nỗi niềm của các nhân vật trong Truyện Kiều, khiến những người như bà tôi, như mẹ tôi, chỉ biết “vua Từ Hải, vãi Giác Duyên, tiên Thúy Kiều”… vừa là người gần gũi với mình, hằng sống bên cạnh mình, và thành thật tin rằng các vị ấy vừa đại diện cho những giá trị tinh thần trong cõi xa xăm, có thể có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến số phận của mình, mà không hề quan tâm các vị ấy là những người ở Trung Hoa hay ở Việt Nam.
Cùng với những câu thơ tả nhân vật từ hình dáng, ăn mặc đến các động tác đều chân thực và sinh động lạ lùng; những câu thơ tả thời tiết, thời gian, không gian và cảnh vật đều nhuốm đầy tâm trạng người, trong những cảnh ngộ riêng, hay đến mức các thi sĩ đời sau không ai sánh được. Có một lần đã lâu, tôi nói chuyện thơ với công nhân mỏ than và nhân dân phường Vàng Danh, nay thuộc thành phố Uông Bí, Quảng Ninh, khi bình đoạn thơ: “Đòi phen gió tựa hoa kề/ Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”; tôi có nói rằng, cụ Nguyễn Du mô tả nỗi buồn của cô Kiều đến mức không còn thấy thiên nhiên tuyệt đẹp là đẹp nữa. Cái tuyệt đẹp ở đây là “phong, hoa, tuyết, nguyệt”, tức là bộ tứ theo quan niệm của thẩm mĩ phương Đông, mà tài làm sao cụ lại xếp được thứ tự đúng là phong rồi đến hoa, tuyết mới đến nguyệt… Lúc giải lao, một người đàn bà môi ăn trầu đỏ tươi đến vỗ vai tôi mà rằng: Cậu giảng nghe cũng hay, nhưng cậu chỉ hiểu chữ, chứ không hiểu đời. “Gió hoa tuyết trăng” đâu phải là phong cảnh. Đây là nói cô Kiều phải tiếp khách suốt đêm, tiếp khách đến tận sáng đấy… Đêm ấy, tôi ngồi một mình trong phòng khách, ngẫm lại câu thơ, thấy người đàn bà kia nói có lí. Sáng sau đến thăm bà chị, mới hay là tuổi trẻ, bà chị cũng từng bị bán để làm gái lầu xanh…
Có lẽ cụ Nguyễn Du cũng đã viết với ý ấy, mà tôi trẻ người non dạ, không hiểu thấu được. Đấy là nói về cảnh. Còn miêu tả tâm trạng, những nỗi niềm của từng người, có đủ mọi hạng người, thì sự sáng tạo của cụ mới thực sự thần diệu và siêu đẳng… Không ai giống ai, từ mụ Tú Bà xảo quyệt, đến cô Hoạn Thư đanh ác, từ gã cò mồi đĩ điếm Mã Giám Sinh, đến tên “trọng thần” của “quốc gia” Hồ Tôn Hiến, từ bà quản gia vô danh, rất giầu lòng nhân ái và rất hiểu lẽ đời trong nhà “quan Lại bộ”, đến đám lưu manh Ưng Khuyển, Sở Khanh, bất nhân lừa đảo… tất cả hợp thành một xã hội, đa dạng và phức tạp như nó vốn có, như nó đã có và như nó đang có, đang sống cùng chúng ta, bên cạnh chúng ta ngày hôm nay. Chỉ một câu thơ “Cô nào xấu vía có thưa mối hàng”, chữ “mối hàng” hiện đại ghê gớm, như ngôn ngữ của thời kinh tế thị trường. Đọc câu thơ ấy, lặng im ngồi vỗ gối một hồi lâu mà thấy sợ ông cụ vô cùng.
Đặc biệt những câu thơ mô tả tâm trạng cô Kiều trong tất cả các tình huống suốt chặng đường 15 năm, khi hờn giận, lúc nhớ thương, khi đau khổ, lúc căm thù, khi hứng khởi, lúc tuyệt vọng… cho thấy một bút lực kì tài. Chỉ riêng điều đó thôi đã có thể soạn được một bộ “từ điển”. Nó như một “bách khoa toàn thư” về các loại tình cảm, các loại tâm trạng thường có, đã thế lại được mô tả với một ngôn ngữ sinh động, huyền diệu, một chữ cũng không ai sửa hay hơn được. Ấy là tôi nói bản Kiều đang lưu hành, dù có thể có chữ nhuận sắc của người khác. Chính nhờ ngôn ngữ của Truyện Kiều, sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du, mà ta có ngôn ngữ phong phú tinh tế, giầu sắc thái và rất đa cảm của ngày hôm nay. Và đó là cột mốc văn hóa bền vững của một quốc gia, tràn đầy bản sắc văn hóa Việt, góp phần làm cho đất nước ta mãi mãi trường tồn. Câu nói của cụ Thượng Chi: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”, không phải là không có lí. Hơn thế, Truyện Kiều không chỉ bộc lộ một tầm trí tuệ rộng lớn của cụ Nguyễn Du, mà còn như một kết tinh hàng ngàn năm những giá trị văn hóa của một đất nước trong một con người, và con người đó phải vài trăm năm, đất nước mới sinh ra được. Cao cả hơn, Truyện Kiều còn là biểu hiện một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc đến khôn cùng. Không ai như Nguyễn Du, máu và nước mắt ướt đẫm ở đầu ngọn bút:
Thân sao thân đến thế này
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương…
Lần nào ngâm ngợi mấy câu thơ này, tôi cũng ứa nước mắt. Đối với tôi, Truyện Kiều là cả một thế giới. Cả đời tôi, chỉ mong một lần được đến nơi cô Kiều đã được sinh ra, một lần được trông thấy Lâm Tri, nơi cô Kiều đã yêu và bị đầy đọa tủi hờn, và một lần được trông thấy sông Tiền Đường “nổi sóng đùng đùng”, nơi cô đã gieo mình xuống, tự vẫn… Tôi đã tìm mọi cách để đến được những nơi ấy và thấy lòng mình vẫn không nguôi những nỗi ám ảnh.
Tôi viết bài thơ Nguyễn Du, ghi lại những cảm nhận của mình, lần theo một số địa danh trong Truyện Kiều và trong Bắc hành tạp lục của cụ. Bài thơ như sau:
Nguyễn Du
Đến đâu con cũng gặp Người
Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa
Hạc Vàng một bóng Lầu xa
Hồ Nam úa ráng chiều tà hanh heo
Tiệc to thường ở nơi nghèo
Đồng ngô khô xác, mái lều gió lay
Người xưa đi sứ qua đây(1)
Bùn lưng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi
Cỏ cây, thành lũy khác rồi
Hoàng Hà đã cạn, thơ Người vẫn sâu
Thời nào thì cũng như nhau
Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa
Tiền Đường sầm sập đêm mưa
Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều(2)12
Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu
Lâm Tri bến cũ, cầu treo rực đèn
Sắc tài chi để trời ghen
Người đâu phải nước đánh phèn cho trong
Cõi đời đâu cũng long đong
Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên
Bời bời những cuộc đỏ đen
Chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang...
Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn
Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi
Bâng khuâng con lại thấy Người
Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa...
Cố Cung 21/9/1999
Trong Đối thoại văn chương, tôi có nói rằng: Vấn đề của sáng tác chỉ có thể giải quyết được bằng sáng tác. Và khi nền văn học đã phát triển đến đỉnh cao thì thế nào cũng xuất hiện một sáng tác có tầm cỡ, trong đó tự nó tổng kết và lí giải các vấn đề của lí luận văn học của thời đại mà nó ra đời. Truyện Kiều là một tác phẩm như vậy. Đến nay ta vẫn có thể tìm thấy ở đây, những lời giải về các vẫn đề: Tiếp thu một di sản văn hóa, nên lấy lại cái gì, loại bỏ cái gì; xây dựng nhân vật điển hình và kết cấu một cuốn tiểu thuyết thơ, nhất là những đối thoại của các nhân vật bằng thơ; đặc điểm và mối quan hệ ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả; chủ nghĩa hiện thực có thể xuất hiện được không trong một thời kì văn chương Phong kiến đầy các ước lệ; sự phản ánh hiện thực đời sống xã hội, trong đó có những cảnh đời gai góc và không trong sạch bằng một ngôn ngữ trong sáng đầy biểu cảm thẩm mĩ; xu hướng nghệ thuật nào là lớn nhất của thơ khi phản ánh ước nguyện của nhân dân và bước đi của một thời đại... vân vân… Ngay tiêu chuẩn nào để đánh giá một tác phẩm, cụ Nguyễn Du cũng “lí luận” rất rõ ràng, và theo tôi có thể coi đó là cái thước đo chung mà chúng ta có thể gọi là “thước đo Nguyễn Du”. Khi nhìn “bức tranh tùng treo trên”, cụ viết: “Phong sương được vẻ thiên nhiên/ Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi”. Với hai câu thơ này, cụ nêu hai tiêu chí để đánh giá một tác phẩm: một là phải chân thực tự nhiên, thanh thoát, như gió như sương, hai là phải vượt được sự thử thách của thời gian “càng nhìn càng tươi”, chữ “tươi” tôi hiểu là càng về sau, tác phẩm đó càng sống và càng đẹp thêm. Đến bây giờ, sau khoảng hơn 200 năm, tiêu chí đánh giá đó vẫn đúng. Đấy là chưa kể trong tác phẩm, có nhiều câu vô cùng sâu sắc, mang ý nghĩa triết học về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, hiện thực và tâm linh, về số phận con người và thời thế “Trời kia đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần, phải phong trần…” trong đó không ít những lời phán quyết: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Và cũng không ít những lời khuyên răn sáng suốt để lại cho hậu thế: “Có tài mà cậy chi tài/ Chứ tài liền với chữ tai một vần”… vân vân và vân vân…
Và như thế, từ thuở ấu thơ, tôi đã tiếp nhận những câu Kiều của cụ Nguyễn Du, không chỉ là một tuyệt tác văn chương mà còn như những bài học đầu đời, tương tự như ánh sáng của một thứ tôn giáo. Vì vậy, tôi nói, Truyện Kiều là bản thánh kinh của tâm hồn tôi.
T.N.M
(SH321/11-15)
-----------------
1. Năm 1813 -1814, Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc.
2. Thúy Kiều (trong Truyện Kiều) trẫm mình ở sông Tiền Đường
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.