Trường đại học của tôi - một tác phẩm thành công tiềm ẩn

09:27 16/09/2008
HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

Nói truyện dài là nói theo như sách đề, cũng đúng. Mà nói là tiểu thuyết, cũng không sai. Theo tôi, đây thực sự một cuốn tiểu thuyết. Trong văn học, chẳng ai ngớ ngẩn xếp tiểu thuyết hơn truyện dài truyện ngắn, điều đấy hiển nhiên. Cái cuối cùng vẫn là chất lượng. Người viết bài này bàn về cái cuối cùng ấy.
Nguyễn Nguyên An không còn trẻ. Anh vốn là nghệ sĩ nhiếp ảnh lâu năm ở Thừa Thiên Huế. Vào lứa tuổi “nhi bất hoặc” anh bỗng cầm bút lên thay cho cầm máy. Những truyện ngắn của anh in rải rác đó đây ở các báo,  tạp chí trung ương và địa phương trong những năm 90, không thể nói là xuất sắc nhưng cũng không thể xếp vào loại vô thưởng vô phạt. Tôi có một khoảng thời gian từ 1987 đến nay quen biết và làm việc với anh ở Hội Văn nghệ TT Huế và Tạp chí Sông Hương. Anh là một hội viên, cộng tác viên năng nổ, chịu khó đi, học, đọc, viết liên tục rèn luyện và đam mê. Chính những đức tính này đã hướng ngòi bút của anh đi từ non nớt đến vững vàng rồi già dặn theo thời gian. Tập truyện ngắn đầu tay: “Nỗi buồn không dám gọi tên” ra đời từ năm 1999 (Nxb Công an nhân dân) đã chứng minh điều ấy. Bấy giờ Nguyễn Nguyên An là cây bút trẻ “không như những nhà văn khác vung vinh chữ nghĩa trên cánh đồng ngôn ngữ, anh đã ấp ủ thai nghén từ những năm tuổi ba mươi đến nay ngoài năm mươi mới công bố tập truyện dài đầu tay...” - (lời Nxb).

Như vậy, đến tuổi ngoài tuổi “thiên tri mệnh”, Nguyễn Nguyên An mới dám đặt bút viết tiểu thuyết ra mắt công chúng yêu văn học. Sự biết mình biết ta này thiết nghĩ là một “đạo đức” của nhà văn. Nhà văn là người phải biết và phải có khả năng lặng lẽ làm việc và làm việc; bỏ ra ngoài tất cả những vung vinh vô bổ cùng những “lăng - xê” tán tụng phù hư.
Trường đại học của tôi đụng vào một đề tài khá hóc búa: tù tội và người quản lý giáo dục kẻ phạm tội. Có thể tóm tắt cuốn tiểu thuyết ngót 300 trang như sau: "Nô trong một lần say rượu, bị kích động đã chém một người bị thương nặng vào lưng. Sau bốn năm trốn lệnh truy nã chui lủi khắp nơi, Nô bị bắt khi đang làm ở một xưởng cơ khí ở Đà Nẵng, bị dẫn độ ra Huế - quê hương của Nô, bị Toà kết tội ba năm tù giam. Qua các trại giam, trại tỉnh, trại cải tạo của Cục V26, Nô bao lo lắng hoang mang, thất vọng... cùng với hy vọng và chất thiện còn âm ỉ trong lòng, anh đã vật vã đấu tranh tư tưởng dữ dội; cuối cùng đứng lên cật lực lao động cải tạo trong trại giam với những phạm nhân khác không phải ai cũng một lòng như Nô - ma mãnh - dối lừa, chèn ép, ti tiện, cơ hội... nghĩa là đủ trò bất hảo. Trong quá trình đó, dưới sự kèm cặp nghiêm khắc nhưng đầy bao dung của những “thầy giáo bất đắc dĩ” - cảnh sát trại giam - Nô đã “trở dạ, khai sinh một nhân cách mới” (lời Nxb), được đặc xá, trở về với gia đình, với cộng đồng và thành đạt trong việc làm ăn với vai trò một chủ xưởng nhỏ gồm toàn những người trước đây tù tội, lầm lỗi, hư hỏng... Họ hàm ơn Nô, hàm ơn sự giáo dục của nhà tù chế độ ta và đều công nhận nơi đó là “trường đại học” của họ.

Một cốt truyện đơn giản và có hậu như vậy, rất dễ sa vào công thức, khô khan, giáo điều. Song Nguyễn Nguyên An với độ chín của một cây bút và độ tuổi của một công dân, bằng thủ pháp kể chuyện ở ngôi thứ ba “Tôi”, anh đã dẫn dắt từ đầu đến cuối không bị hẫng hụt, thất vọng lúc nào - có thể nói như vậy. Sự hấp dẫn của một cuốn tiểu thuyết không nằm ở chỗ những tình tiết gay cấn, giật gân mà ở sự chân thực, hồn nhiên pha chút vụng dại ngây thơ, rất sống động. Cách viết của Nguyễn Nguyên An, tôi gọi là truyền thống mới: đó là đồng hiện và liên hiện. Không một sự kiện nào xuất hiện đơn lẻ mà theo nó, vài sự kiện khác đã có hoặc manh nha sắp có, có hình, có bóng trước mắt người đọc. Nghĩ về một người hay chính mình đi liền với một người khác, một chuyện khác liên quan giây dợ giềng mối với người đó chuyện đó.
Tác giả dành khá nhiều trang nói về gia đình và hoàn cảnh xã hội, sinh sống của những người trong gia đình nhân vật chính - nơi từ đó anh ta lớn lên và phạm tội. Ba mẹ bỏ nhau khi “tôi” lên tám, chị gái lên mười, hai em còn nhỏ. Ba chị em ở lại với ba, còn mẹ đứa út mới mười mấy tháng tuổi. Mấy tháng sau một người bạn tài xế ghé nhà nói với ba: “Tau thấy con mi lem luốc bò dưới đất ăn cơm với chó. Mi vô đem nó ra kẻo tội!”. Ba tôi tức tốc nhảy vô Hội An. Mẹ ham chơi đua đòi và không chịu được cực khổ, chẳng đoái hoài đến con cái. Trước đó, ba đã quỳ lạy mẹ trong hành lang toà án: “đừng bỏ anh, tội các con!”. Mẹ Yến: “anh buông tha cho tôi với!”. Mệ Quy thấy ba đang quỳ, an ủi: “Thôi về lo làm ăn rồi cũng lấy được vợ!” Mắt mẹ long lên: “Chó mà lấy!”. Bà nội chửi: “Đồ đàn bà đoản hậu, chỉ một đứa con nuôi cũng không nổi”. Ông nội đối với cháu không cân phân, con chú thì yêu chiều, con ba là chúng tôi thì làm cái gì sai ông đánh đập, ngày ngày cứ đợi ba tôi ló mặt về là chửi. Ba nuốt hết những lời cay đắng, còng lưng chịu đựng, rểu rảo khắp nơi chụp ảnh dạo kiếm tiền nuôi bốn “con tàu há mồm”. Chiều tối ba về lủng lẳng trên chiếc ghi đông xe đạp một gói cá nục hay nửa ký thịt mỡ; nghe ông nội chửi: “Cha cô bà đẻ con không dạy”, điên tiết ba lôi chúng tôi ra đánh tiếp. Chúng tôi không mẹ, luôn bị đói khổ chửi bới đòn roi đến ù lỳ. Tôi thường bỏ học, cầm đầu tụi bạn cùng lứa lang thang ngoài đường ngoài công viên, mười tuổi đã biết ăn hiếp, trấn lột bạn; mười ba tuổi học lớp 8 đã nổi tiếng là “đầu gấu” ở sân trường. Thằng em út đau ốm bụng ỏng da chì, sổ ra đúng một rổ 39 con giun đũa. Xổ xong nó cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, ngồi đâu là ngồi đù một cục. Dù vậy, nó vẫn lớn lên như cây cỏ, không hề biết mình dại ngộ. Nó đụng đến việc gì là hỏng việc ấy, rửa ly bể ly, rửa chén bể chén. Nó thường lang thang ngoài công viên, các quán cà phê; bị tụi bụi đời đánh vác cái mặt máu sưng vều về nhà. Đêm nào nó cũng đi, mười một mười hai giờ mới về nhà, bị ba phạt có, đánh có, không cho ăn cơm, trói xích đủ cả... nhưng nếu hở một chút là nó chuồn liền. Rồi dì Hạnh nhảy vào lấy ba khi dì đã băm chín tuổi, cái tuổi mà thời gian đã gọt dũa đến nguội lạnh háo hức khát khao của người phụ nữ, nhưng dì - mẹ - cám cảnh gà trống nuôi con của ba, cảnh chúng tôi đầu xanh không có sự chăm sóc của bàn tay người mẹ. Có lần, hai mẹ chúng tôi gặp nhau, một bên là nhà giáo chịu thương chịu khó, một bên là người đàn bà chơi bời hoang tàng, trang sức màu mè, ăn nói lấc cấc, uống rượu hút thuốc liên miên, đến nổi không nhận ra mặt tôi nữa...
Các nhân vật mỗi người một nét điển hình với dấu ấn không thể nào lẫn đã được ngòi bút Nguyễn Nguyên An vẽ nên khá rõ, đạt độ chân thực sinh động một cách bất ngờ. Đặc biệt dì Hạnh người mẹ kế. Khi mới về nhà cha con Nô, Hạnh gây cho mọi người một cảm giác khó chịu: người cao to, đi đứng hậm hụi nhưng ăn mặc thì chải chuốt, làm đẹp bằng kính trắng, lắc, nhẫn, dây chuyền... những “phụ tùng” ấy không giúp cho Hạnh bớt thô, trái lại làm giảm phần trí thức của một cô giáo. Nhưng rồi sau đó, Hạnh đã bán dần cho đến hết để lo cho gia đình và thăm nuôi Nô với tình cảm không khác chi Nô do mình rứt ruột đẻ ra. Sau mười mấy năm, Hạnh có từ gia đình Nô là vóc dáng gầy gò, tóc tai ngày càng bạc vì quần quật việc nhà việc trường, đêm lại bận bịu với giáo án với các em Nô. Sao mẹ Hạnh cam tâm làm vợ ba, làm mẹ chúng tôi cho khổ vậy? Có phải đó là đức tính nhân hậu, đảm đang của một phụ nữ Huế? Nô tự thấy vô cùng có lỗi với mẹ Hạnh vì ba lần trách cứ mẹ Hạnh đưa lên trại đồ thăm nuôi ít, rồi lại hối hận tự xỉ vả mình hư hỏng, đòi hỏi gia đình này nọ. Biết làm sao xin lỗi mẹ Hạnh đây? Nô chỉ biết nguyện cầu đất trời phù hộ cho mẹ Hạnh và hứa tự mình không làm điều gì để mẹ Hạnh và gia đình phiền lòng nữa...

Về nhân vật công an, cảnh sát trong cuốn sách, có lẽ là điều người đọc quan tâm nhất. Thượng tá Khá, thiếu uý Hiệu rồi các cảnh sát trại giam, những tự giác viên trong trại... được Nguyễn Nguyên An miêu tả trung thực và công bằng... không tô vẽ ngợi ca quá đáng những gì tốt đẹp của các anh, cũng không "bức xô" hành động hoặc có những ý nghĩ nặng nề với những gì còn hạn chế của họ. Làm sao chúng ta lại không thấy rằng: vì nhiệm vụ, vì bản chất nhân văn, các anh công an, cảnh sát trại giam không chỉ chịu trận với cái xã hội đầy thói hư tật xấu do những người tù mang lại mà còn chịu cảnh năm này qua năm khác chung thân với núi rừng hiu quạnh, xa rời sự êm ấm yêu thương nơi phố phường rực rỡ, tiện nghi thoải mái?

Tóm lại, trên tất cả lòng nhân ái, vị tha của các anh - những “người thầy bất dắc dĩ” như tù nhân đã gọi họ một cách âu yếm và kính phục.
Trường đại học của tôi: còn đưa tới một vấn đề không mới nhưng chẳng bao giờ cũ trong nghệ thuật ngôn từ mà giờ đây không phải nhà văn nào cũng quan tâm đầy đủ và chính xác: vấn đề sử dụng thổ âm địa phương trong văn học.
Nguyễn Nguyên An trong tiểu thuyết của mình đã khéo léo lựa chọn (chứ không mô tê răng rứa nhàm chán và xoàng xĩnh) để bổ sung và đặc tả tính cách con người và sự việc ở vùng đất bối cảnh - Huế mới có: “ngồi đù một cục”, “lớn sượng”, “chịu đèn nhau” (yêu nhau), “mừng quớ ông điếu”v v...
Cuốn sách sẽ toàn vẹn hơn nếu như tác giả đừng viết vội phần sau, chắt lọc khe khắt chặt chẽ với mình hơn. Dù vậy, tôi nghĩ rằng thành công của “Trường đại học của tôi” là đúng giá, là tiềm ẩn cho những thành công sắp tới ở nhà văn Nguyễn Nguyên An.
H.N

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.