Trong hoa sen có ngọc

15:09 16/10/2008
TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

Có thể có ai đó đặt vấn đề tại sao người Việt Nam lại đi viết về Ấn Độ. Nhưng thật ra văn hóa Ấn là một miền phong nhiêu bất tận không của riêng một hay một vài dân tộc, nó đã thuộc về nhân loại. Kippling, Hermann Hesse và nhiều nhà văn thế giới đã viết về Ấn Độ, bởi những biểu tượng của văn hóa Ấn là nguồn cảm  hứng sâu thẳm khơi lên những chiêm nghiệm vô biên về đời người. Và giờ đây, một nhà văn Việt Nam...
 Có 3 chương tôi, 7 chương Savitri, và 9 chương Đức Phật. Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái được cấu thành bởi ba phần rõ rệt, nhưng ba phần ấy không tách lìa nhau, chúng xen lẫn vào nhau để dẫn tới một kết thúc chung nhất. Tựa như những âm thanh của một dàn hợp tấu - ta có thể nghe rõ âm sắc từng nốt nhạc nhưng tất cả quyện chặt với nhau thành một tổng thể không thể tách rời.
Ta không thể không lưu ý đến cấu trúc của tiểu thuyết, bởi rất nhiều ý tưởng được chuyển tải trong cấu trúc đầy dụng ý này.
Mở đầu cuốn tiểu thuyết, tác giả đưa chúng ta đến không gian của Ấn Độ ngày nay với Savitri, một thiếu nữ Ấn làm nghề hướng dẫn du lịch. Savitri đã từng được phong làm nữ thần đồng trinh trong thời thơ ấu - một nghi thức tín ngưỡng dân gian vùng . Sự kiện được phong làm nữ thần đồng trinh này hé lộ cho thấy mối liên hệ huyền bí giữa Savitri ngày nay và một Savitri của năm ngàn năm trước. Tuy hai mà một, vì Savitri này là hậu thân của Savitri kia - Cả hai đều là những chặng ngẫu nhiên của một dòng sự sống miên viễn và mạnh mẽ không ngừng chảy.

Dòng sự sống ấy được mô tả qua  nhiều hành trình lồng ghép trong nhau như những vòng tròn đồng tâm:
Vòng ngoài cùng là hành trình của tôi và Savitri - hậu thân, đi tìm những Phật tích. Hành trình của họ khởi đầu từ vườn Lumbini, nơi Phật ra đời, và đóng lại ở Kushinagar, nơi Phật nhập diệt.
Vòng bên trong là hành trình của Savitri - tiền thân, nàng công chúa Ấn Độ cổ đại với tình yêu suốt đời dành cho Thái tử Shidarta, sau này là Phật Tổ.
  Bốn mươi năm, từ lúc còn là một đứa bé gái, đến lúc thành hoàng hậu rồi trốn thoát khỏi giàn thiêu và trở thành tội nhân chạy trốn khắp Ấn Độ cổ đại, nàng luôn luôn hướng về khát vọng bền bỉ ấy, suốt đời nàng tìm cách níu kéo Shidarta về với cõi tục nồng nàn này một cách vô vọng.

 Và vòng trong cùng là hành trình của Thái tử Shidarta đi tìm chân lý. Chín chương về Đức Phật vỏn vẹn 96/426 trang, chỉ chiếm một phần tư dung lượng tác phẩm, nhưng vị trí của nó giống như ngọn đuốc ở giữa  tỏa sáng, soi chiếu toàn bộ vận động của những nhân vật trong hai phần còn lại.
Cạnh những vòng tròn lớn  ta còn gặp những vệ tinh nhỏ xuất hiện cũng trên trục đồng tâm ấy; hành trình của Usa - nàng kỹ nữ danh tiếng, của Yasa chàng công tử hào hoa, của tướng cướp Raja với xâu chuỗi trăm ngón tay người quanh cổ - những con người ấy đều dần dần vuột khỏi thế giới của Savitri để qui tụ dưới bóng cây Bồ Đề giác ngộ. Và tất cả kết thúc - mà không hề kết thúc - vào lần gặp gỡ cuối cùng, trước giờ Phật nhập Niết Bàn.

Với Shidarta, tình yêu lớn nhất dành cho chân lý, với Savitri, chân lý lớn nhất là tình yêu.
Hai hành trình đó không loại bỏ nhau, mặc dù chúng khác nhau từ khởi điểm: sự khác biệt giữa Mê và Ngộ. Savitri cho đến cùng vẫn không là tín đồ, không quy y. Sau lễ hỏa táng Đức Thích Ca, nàng ôm cái bát gỗ ra đi - Cái bát đựng nước trong lễ hiến tặng cuối cùng dâng lên Đức Phật. Nhưng trước giờ nhập diệt Ngài đã nói: “Người như nàng rất cần cho giáo hội”. Shidarta trở thành Đấng Giác Ngộ là bởi trái tim rộng lớn có sức dung chứa vô bờ bến, trong trái tim đó không có sự loại trừ mà chỉ có hóa  giải và bao dung.


Cuốn sách đóng lại với câu thần chú Um mani pad me hum - Trong hoa sen có ngọc. Lúc ra đi trong sương sớm, tôi không nhìn thấy gì, lúc trở về trong hoàng hôn, Savitri không nhìn thấy gì, tôi là người dẫn lối. Một sự  hoán vị gây nhiều ấn tượng: hành trình của nhận thức đưa tác giả từ khách thể trở thành chủ thể, và có lẽ người đọc cũng thế, sẽ đóng sách lại với những rung động mạnh mẽ trước sự khai mở một thế giới lớn lao, trong đó mọi khát vọng của con người đều được đẩy đến cùng...
                                    T.T.M

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".